✨Hàn Thế Trung

Hàn Thế Trung

Hàn Thế Trung (, 1089-1151) là tướng nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Cùng với Nhạc Phi, ông là vị tướng chống Kim nổi tiếng thời Nam Tống, được người đời gọi chung là "Hàn Nhạc".

Cùng với Nhạc Phi, Lý Cương, Triệu Đỉnh, Văn Thiên Tường, ông là 1 trong 5 vị quan trong thời Nam Tống được thờ tại Đế vương miếu (历代帝王庙) được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại.

Thời trẻ

Hàn Thế Trung quê ở Diên An. Từ thời niên thiếu, Thế Trung là người dũng mãnh, tính cách ngang tàng thô bạo, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Khi uống rượu say, Hàn Thế Trung thường ăn nói mất chừng mực, nên mọi người gọi ông là Bát Hàn Ngũ (anh Năm Hàn ngổ ngáo).

Và cũng lúc trẻ, Hàn Thế Trung từng lui tới chốn thanh lâu để tiêu sầu và là một khách làng chơi. Tại đây ông đã gặp nữ nhân phong trần Lương Hồng Ngọc, Lương Hồng Ngọc sau đó đồng ý làm vợ của Hàn Thế Trung.

Năm 1106, ông đầu quân vào làm lính địa phương, bắt đầu cuộc đời binh nghiệp.

Thời Bắc Tống

Chống Tây Hạ

Diên An quê ông ở gần nước Tây Hạ, vua Tây Hạ thường mang quân đến quấy nhiễu biên giới. Năm 1105 đời Tống Huy Tông, quân Hạ lại vào đánh biên giới Tống. Hàn Thế Trung trong số những người đi chống Hạ.

Khi hành quân đến Ngân châu, ông dũng cảm đi đầu, phá cửa ải giết được tướng bên địch và quăng thủ cấp ra ngoài. Quân Hạ mất tinh thần, bị bại trận. Quân Tống thừa cơ phá thành.

Hạ Sùng Tông điều trọng binh lên cố thủ núi Cao Bình, Hàn Thế Trung dẫn quân lên núi đánh một trận ác liệt, quân Tây Hạ phải rút lui. Ít lâu sau, quân Hạ lại theo đường tắt hiểm trở đánh úp quân Tống, Thế Trung lại dẫn quân cảm tử chống lại, đẩy lui được quân Tây Hạ. Trong số quân Hạ có một viên tướng dũng mãnh xông pha trong trận, Hàn Thế Trung hỏi tù binh Tây Hạ thì được biết đó là phò mã Ngột Di nước Hạ. Ông thúc ngựa lao vào trận chém luôn được Ngột Di, quân Tây Hạ thua tan tác.

Thế Trung lập công lớn trong chiến dịch chống Hạ, được tâu báo về triều đình, nhưng gian thần Đồng Quán quản lý việc biên phòng nghi ngờ ở ngoài biên tâu báo quá lời nên chỉ thăng cho ông một cấp.

Dẹp nội loạn

Năm 1120 - 1121, ông theo tướng Vương Uyên và Đồng Quán đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Phương Lạp ở Giang Nam. Vì có công lao, ông được phong làm Thừa tiết lang.

Năm 1126, tướng Lý Phục nhà Tống dấy binh làm loạn. Hàn Thế Trung theo lệnh Lý Di mang quân truy kích. Đến bờ sông Lâm Tri, ông còn không đầy 1000 người, chia ra 4 đội, bản thân mình chặn đường rút và hạ lệnh quân lính tử chiến, nếu không sẽ cho hậu quân giết hết. Quân lính hăng hái đánh trận giết được Lý Phục, nhưng quân phản vẫn còn hơn 1 vạn người. Hàn Thế Trung dẫn ngàn quân đuổi theo tới Tứ Thiên, một mình một ngựa xông đến dọa rằng: :Đại quân Tống đã đến, các ngươi nên hàng để lập công với triều đình!

Quân phản xin hàng. Tới hôm sau không thấy đại quân Tống, quân phản hối hận nhưng không kịp. Nhờ lập công một mình dụ hàng phản quân, Thế Trung được phong làm Tả Vũ đại phu, Đoàn luyện sứ Quả châu.

Chống Kim

Phía bắc, nước Kim nổi lên diệt Liêu và thành thế đối đầu với Tống. Năm 1121, Tống Huy Tông dự định đánh Kim để thu phục đất Yên Vân, nhưng bị thất bại trở về. Hàn Thế Trung và Tô Cách chỉ mang theo 50 kị binh, thu gom tàn quân chống lại 2000 quân Kim và đánh lui được địch đuổi theo.

Năm 1126, quân Kim vây hãm Chân Định, Thế Trung theo Vương Uyên ra giữ Triệu Địa. Quân Kim vây đánh rất gắt gao. Quân Tống bị hết lương, nhiều người khuyên ông trốn khỏi vòng vây nhưng ông không nghe theo. Nhân một đêm trời mưa tuyết lớn, ông dẫn 300 quân cảm tử đánh vào doanh trại quân Kim. Quân Kim không phòng bị, bị thua chạy hỗn loạn. Tướng Kim bị giết, quân Kim buộc phải rút lui. Nhờ lập công trong trận này, Hàn Thế Trung được phong làm Gia châu Phòng ngự sứ.

Thời Nam Tống

Dẹp loạn Miêu – Lưu

Năm 1127, quân Kim đánh xuống Biện Kinh bắt thái thượng hoàng Huy Tông và vua Khâm Tông. Em Khâm Tông là Triệu Cấu chạy về Giang Nam lập ra nhà Nam Tống, tức là Tống Cao Tông.

Cao Tông sợ quân Kim, không muốn khôi phục trung nguyên, chỉ muốn di đô về Hồ Nam để tránh xa quân địch. Hàn Thế Trung không đồng tình, kiến nghị Cao Tông không thể bỏ Giang-Hoài. Nhưng Cao Tông không nghe theo, vẫn thiên đô về Lâm An thuộc Hàng châu. Điều đó khiến nhiều tướng sĩ bất mãn. Hai đại thần Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn bèn làm binh biến, bắt giữ Cao Tông và định buộc nhường ngôi.

Đại thần Trương Tuấn họp các tướng để bàn cách đối phó. Hàn Thế Trung cùng Lưu Quang Thế mang quân về hội và cùng nhau chống Miêu - Phó. Tháng 3 năm 1129, ông mang quân đến Bình Giang, được Trương Tuấn chi viện 2000 quân. Khi đến Tú châu, Thế Trung giả ốm không tiến binh. Miêu Phó sai người ra truyền lệnh cho ông đóng binh ở Giang Âm. Thế Trung giả cách nghe theo, rồi viết thư nói rằng mình có ít quân, xin về Lâm An. Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn tin theo, buộc Tống Cao Tông ra chiếu bổ nhiệm ông làm Tiết độ sứ. Đồng thời, Miêu Phó sai vợ ông là Lương thị và con ông là Hàn Lượng đang ở Lâm An đi cùng sứ giả ra Tú châu dụ ông về theo.

Hàn Thế Trung gặp vợ con biết tình hình ở Lâm An, bèn chém chết sứ giả và mang quân tiến đánh. Khi đến Lâm Bình, Miêu Phó sai Miêu Dực và Mã Chu Cát ra chống cự. Hàn Thế Trung được Trương Tuấn và Lưu Quang Thế tiếp ứng, đánh tan quân họ Miêu, tiến thẳng đến Lâm An. Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn bỏ thành chạy, để lại vua Cao Tông. Thế Trung mang quân truy kích đến Ngư Lương, quân Miêu-Phó tan vỡ. Ông bắt sống Miêu Dực và Lưu Chính Ngạn, sau đó bắt sống Miêu Phó ở Kiến Dương. Tất cả đều bị giải về Lâm An xử tử.

Tống Cao Tông xét công lao của ông, phong làm Vũ Thắng quân Tiết độ sứChiêu Khánh quân Tiết độ sứ, Ngự doanh tả quân Đô thống chế.

Chặn đánh Ngột Truật

Tháng 10 năm 1129, hoàng tử nước Kim là Ngột Truật mang đại quân đánh Giang Nam. Tướng Đỗ Sung không có khả năng chống cự khiến các tuyến phòng thủ của Nam Tống lần lượt bị vỡ rồi ra hàng Kim. Ngột Truật mang quân truy sát Tống Cao Tông. Cao Tông sợ hãi bỏ chạy qua nhiều thành rồi cuối cùng giăng buồm trốn ra biển.

Trong khi quân Kim rượt đuổi Cao Tông, Thế Trung đóng quân ở Trấn Giang. Quân Tống nhiều nơi bại trận, ông lui về giữ Giang Âm, chia quân ra phòng bị. Tống Cao Tông trong lúc chạy trốn đã triệu tập Thế Trung về hộ giá cùng chạy về nam nhưng ông tâu rằng quân Kim sẽ không thể ở lâu, ông muốn đóng quân ở sông Trường Giang để chặn đường rút lui của địch. Cao Tông chấp thuận ý kiến của ông.

Vào ngày rằm tháng 1 năm 1130, Thế Trung cố ý giăng đèn kết hoa mở hội ở Tú châu để đánh lạc hướng quân Kim. Một mặt, ông mang quân bí mật phục ở Trấn Giang. Cao Tông chạy ra biển, Ngột Truật đuổi không bắt được đành phải hạ lệnh rút lui vì quân Kim trải dài trên nhiều phòng tuyến và bị dân Tống quấy phá.

Tháng 3 năm 1130, 10 vạn đại quân Ngột Truật rút về tới Trấn Giang, Thế Trung mang 8000 quân ra giữ chùa Tiêu Sơn trước, tung quân chặn đánh. Lương phu nhân vợ ông cũng ra mặt trận. Quân Kim bị chặn đứng đường về, không thể qua sông được. Ngột Truật thương lượng mấy lần, xin trả lại của báu cướp ở Giang Nam và ngựa quý để được mở đường về nước, nhưng ông không chấp nhận.

Quân Kim ở Giang Bắc đến chi viện cho Ngột Truật nhưng bị thủy quân của Thế Trung ngăn trở. Ngột Truật chạy dọc dòng sông tìm đường khác qua sông nhưng Thế Trung nhất định bám riết. Hai bên vừa đi vừa đánh. Ngột Truật định đánh phá vây lên bờ bắc nhưng không nổi, bị Thế Trung dồn vào vũng Hoàng Thiên.

Quân Kim bị vây trong vũng Hoàng Thiên trong 40 ngày. Sau Ngột Truật được một người Mân hiến kế đào kênh thông ra sông Trường Giang để có lối thoát. Hàn Thế Trung phát hiện, mang thủy quân đuổi đánh, nhưng bị quân Kim phản kích, dùng thuyền nhỏ ra áp sát bắn cháy buồm khiến chiến thuyền lớn của ông không di chuyển nhanh được. Quân Kim được tiếp viện cùng dồn lại đánh bại quân Tống. Hai bộ tướng của ông là Tôn Thế Thuần và Nghiêm Doãn tử trận. Thế Trung buộc phải lui quân, Ngột Truật thoát về Giang Bắc.

Chống liên quân Kim - Tề

Năm 1133, Tống Cao Tông phong Hàn Thế Trung làm Khai phủ nghi đồng Tam ty, Tuyên phủ sứ hai lộ đông và tây Hoài Nam.

Nước Kim đánh chiếm trung nguyên, dựng chính quyền thân Kim là Tề vương Lưu Dự. Năm 1134, một tướng Tống khác là Nhạc Phi đánh thắng quân Kim, thu phục 6 quận Tương Dương. Quân Kim bèn tập trung 10 vạn binh mã, tấn công vào khu vực Lưỡng Hoài do Thế Trung trấn giữ. Tống Cao Tông một mặt sai Ngụy Lương Thần đi sứ sang Kim cầu hòa, mặt khác sai người đưa thư cho ông ra lệnh lui về Trấn Giang lo phòng thủ, đối phó quân địch đánh vào Giang Nam.

Thế Trung không ủng hộ chủ trương cầu hòa của Cao Tông, không muốn lui binh. Đúng lúc Ngụy Lương Thần vào đất Kim, Hàn Thế Trung rút quân khỏi cửa đông, dỡ bớt bếp trong doanh trại để tỏ ý định lui về Trấn Giang. Một mặt, ông bố trí lực lượng phục sẵn để chờ quân Kim. Các tướng Kim nghe Ngụy Lương Thần báo việc Thế Trung lui quân, Nhiếp Nhi Bột Cẩn bèn mang quân đến bờ sông Trường Giang, Biệt Đạt Bội cũng dẫn kị binh tiến vào vùng trấn giữ của Thế Trung. Ông bất ngờ tung quân ra đánh, quân Kim bị hất xuống bùn chết nhiều. Tướng Biệt Đạt Bội và 200 quân Kim bị bắt.

Trong khi đó, bộ tướng của Thế Trung là Đổng Lược cũng đánh bại được quân Kim ở Ác Khẩu, bắt sống hơn 40 quân Kim. Một bộ tướng khác là Giải Nguyên mang thủy quân đến Cao Bưu đụng độ quân Kim, hai bên giằng co lâu ngày. Thế Trung sai Thành Mẫn đến chi viện, cuối cùng đánh lui được quân địch. Bản thân ông cũng mang quân đến đánh địch ở bờ sông Hoài. Quân Kim phải rút chạy về bắc, bị chết đuối ở sông khá nhiều.

Năm 1136, Hàn Thế Trung được phong làm Vũ Ninh, An Hòa quân Tiết độ sứ, Tuyên phủ sứ hai lộ Kinh Đông, Hoài Đông. Ông và Lương phu nhân thường cùng lao động với quân sĩ, thu dụng lưu dân. Một mặt ông luyện quân, mặt khác vẫn cho thông thương qua lại. Quân đội dưới quyền ông chỉ có 3 vạn người, chuyên đảm nhiệm che chắn Giang Hoài cho nhà Tống.

Sau đó ông nhận lệnh của Hữu tướng quân Trương Tuấn đi đánh Hoài Dương do Tề vương Lưu Dự (chính quyền thân Kim) trấn giữ. Ông mang quân vượt sông Hoài, đến Phù Ly dưới chân thành Hoài Dương thì bị quân Kim đến cứu viện bao vây. Hàn Thế Trung xung trận phá vây, bộ tướng của ông là Hô Duyên Thông bắt sống được Nha Hợp Bột Cẩn, phá tan viện binh Kim. Quân Kim bỏ chạy, quân Tống vây Hoài Dương 6 ngày nhưng cuối cùng không hạ được, phải rút lui.

Chống nghị hòa

Tống Cao Tông một mực muốn nghị hòa với nhà Kim, trong khi những tướng lĩnh chủ chiến như Thế Trung và Nhạc Phi đều có ý định bắc tiến để đón 2 vua cũ là Huy Tông và Khâm Tông trở về. Cao Tông sợ mất ngôi báu nên một mực không nghe theo kiến nghị của ông và Nhạc Phi.

Năm 1138, Tống và Kim đàm phán nghị hòa; đổi lại Kim chấp nhận phế bỏ chính quyền Tề vương Lưu Dự do chính mình dựng lên. Thế Trung cho đó là cơ hội tốt để bắc tiến thu phục trung nguyên, nhưng Tể tướng Tần Cối - người có cùng quan điểm với Cao Tông - điều quân của ông từ Giang Bắc về Giang Nam, ngăn cản ông tác chiến với quân Kim. Ông nhiều lần kiến nghị để quân ở lại bố phòng, khi không được chuẩn y ông đã đích thân về Lâm An kiến nghị lên Cao Tông. Cao Tông tuy biểu dương ông nhưng không làm theo.

Cuối năm đó, sứ giả nhà Kim đến ra điều kiện nghị hòa: Cao Tông phải bỏ áo hoàng đế, mặc áo đại thần, quỳ về phương bắc tiếp nhận chiếu chỉ của vua Kim. Cả triều đình Tống chấn động. Hàn Thế Trung cực lực phản đối, nhiều lần dâng biểu và đích thân đến gặp vua can ngăn nhưng vẫn không được chấp nhận. Ông sai thủ hạ đón đường bắt sứ Kim, nhưng mưu bị lộ nên sứ Kim đi đường khác thoát về Sau đó Ngột Truật bị bại trận trước Lưu Kỳ ở Thuận Xương. Vợ chồng Hàn Thế Trung - Lương Hồng Ngọc cũng đánh bại quân Kim, giành lại Ngư Châu, chuẩn bị hội quân với Nhạc Phi cùng bao vây Ngột Truật ở Biện Kinh. Tuy nhiên sau đó vua Tống Cao Tông nghe lời Tần Cối cho rút hết các lộ quân Tống trở về nam.

Mất binh quyền

Năm 1141, Ngột Truật lại mang quân nam tiến. Tống Cao Tông lệnh cho các cánh quân Tống của Thế Trung và Nhạc Phi tập trung ở Hoài Tây đón đánh. Trương Tuấn, Lưu Kỹ, Dương Nghi Trung và Vương Đức đánh bại Ngột Truật ở Chá Cao. Sau đó quân Kim của Ngột Truật lại hạ được Hào châu, các tướng Tống là Vương Đức và Dương Nghi Trung bị quân Kim phục kích thua chạy. Khi Thế Trung và Nhạc Phi mang quân đến chi viện thì quân Kim bỏ chạy. Ông mang quân vượt sông Hoài đánh địch, không phân thắng bại. Cuối cùng cả hai bên đều lui binh. Nhạc Phi lại thừa cơ một mình bắc phạt nước Kim, sau đó cũng bị vua Tống Cao Tông triệu về.

Để dẹp bỏ những trở ngại do phe chủ chiến gây ra, Tống Cao Tông theo lời Tần Cối và Trương Tuấn, thu binh quyền của các tướng phe này: điều Hàn Thế Trung đi làm Khu mật sứ Lâm An; Nhạc Phi cũng bị điều làm Khu mật phó sứ.

Trương Tuấn và Tần Cối mưu phân tán lực lượng quân đội của Thế Trung ra rồi ám hại ông. Tháng 5 năm 1141 Trương Tuấn cùng Nhạc Phi đi thị sát quân đội của ông. Trương Tuấn định bàn mưu Tần Cối bày ra với Nhạc Phi để hại Thế Trung nhưng Nhạc Phi không đồng tình, phê phán Tuấn và báo lại cho ông biết. Thế Trung đến gặp Cao Tông tố cáo, do đó ý định của Tần Cối và Trương Tuấn không thực hiện được. Vì việc này Tần Cối hận Nhạc Phi.

Hai bên Tống - Kim đã ngưng chiến, Cao Tông lại phái Ngụy Lương Thần đi sứ Kim cầu hòa. Thế Trung vẫn cực lực phản đối, nhiều lần dâng biểu can. Tần Cối sai thủ hạ kích động gièm pha vu cáo ông. Ông bị giáng từ Khu mật sứ Lâm An xuống làm Phong Tuyền quán sứ, bù lại tấn phong danh hiệu Phúc Quốc công để an ủi. Nhạc Phi bị Tần Cối vu cáo và bị Cao Tông xử tử vào tháng 1 năm 1142 dương lịch.

Từ khi bị mất binh quyền, ông lui về đóng cửa, ít gặp mọi người. Nghe tin Nhạc Phi bị hại vì tội danh "có lẽ có" mà Tần Cối nêu ra, nhiều người sợ vây cánh của Tần Cối nên không dám nói, riêng Hàn Thế Trung phẫn nộ đến gặp Tần Cối chất vấn. Sau vụ án Nhạc Phi, Hàn Thế Trung vẫn hay gặp mặt Tần Cối nhưng khi ra vào chỉ ra hiệu tay, không nói một lời nào để tỏ sự khinh miệt.

Năm 1142 Tống - Kim ký hòa ước Thiệu Hưng với những điều khoản bất lợi cho nhà Tống. Trước tình hình này, Hàn Thế Trung phẫn uất, không vui. Vợ của ông là Lương Hồng Ngọc can rằng:

:Thời buổi gian thần nắm quyền, tướng công nếu không biết mưu tính thì liệu có giữ được thân không

Qua đời

Cuối đời, Hàn Thế Trung theo đạo Phật, đạo Lão, tự xưng là Thanh Lương cư sĩ, ý nói ông không quên vùng quê hương vẫn đang nằm trong tay quân Kim.

Năm 1151, Hàn Thế Trung qua đời, thọ 63 tuổi. Trước lúc lâm chung, Hàn Thế Trung vẫn không quên chuyện Nhạc Phi bị Tần Cối hại chết. Ông được truy phong là Thái sư, Thông Nghĩa quận vương. Đến thời Tống Hiếu Tông, ông được truy phong là Kỳ vương, thụy là Trung Vũ.

Trong việc chống Kim, Hàn Thế Trung nổi danh ngang hàng với Nhạc Phi. Sau hơn 20 năm chinh chiến, ông trải qua hàng trăm trận lớn nhỏ, trên người đầy vết thương, chi chít sẹo; 10 ngón tay chỉ còn 4 ngón nguyên vẹn.

Hàn Thế Trung qua đời, vợ là Lương Hồng Ngọc một mình nuôi con. Hai năm sau, năm 1153, Lương Hồng Ngọc cũng mất.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hàn Thế Trung** (, 1089-1151) là tướng nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Cùng với Nhạc Phi, ông là vị tướng chống Kim nổi tiếng thời Nam Tống, được người đời gọi chung là
**Hội nghị thượng đỉnh ba bên Trung Quốc - Nhật Bản - Hàn Quốc** là một hội nghị thượng đỉnh thường niên được tổ chức giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, ba nước
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Hàn Thác Trụ** (chữ Hán: 韓侂胄, 1152 - 1207), tên tự là **Tiết Phu**, là tể tướng dưới triều Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông nhờ thân phận con cháu của cố tể
**Tinh trung Nhạc Phi** (tiếng Trung: 精忠岳飞; Phiên âm: _Jīng Zhōng Yuè Fēi_) là một bộ phim truyền hình thể loại dã sử cổ trang của Trung Quốc, với nội dung kể về cuộc đời
**Hàn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này khá phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 韓, Bính âm: Han), nó đứng thứ 15 trong danh sách _Bách gia
Thiền sư **Hán Nham Trùng Viễn** (kr: **Hanam Jungwon**, zh: **漢巖重遠**; 1876-1951), thiền sư nổi tiếng thời cận đại của Thiền phái Tào Khê Hàn Quốc. Sư là một trong những người có ảnh hưởng
Giới thiệu tóm tắt tác phẩm The series A History of Vietnam in Pictures presents the history of Vietnam in a brief, interesting and systematic way through concise tales and beautiful pictures. The Trưng Ladies
**Hàn the** (danh pháp hai phần: **_Desmodium heterophyllum_**) còn gọi là **sơn lục đậu,** là một loài thực vật có hoa thuộc họ Rau Răm, loài này được (Willd.) DC miêu tả khoa học đầu
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Chữ Hán giản thể** ( - _Giản thể Hán tự_) là bộ chữ Hán được chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tạo ra sau khi thành lập nước, nhằm thay thế chữ Hán
nhỏ|phải|Kiến trúc kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Ẩm thực kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Hán phục (áo [[Sườn xám).]] **Văn hóa Trung Quốc** (chữ Hán giản thể: 中华文化; chữ Hán phồn thể: 中華文化; Hán-Việt:Trung Hoa văn hoá;pinyin: Zhōnghuá wénhuà)
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
Đông trùng hạ thảolà một loại dược liệu nổi tiếng từ xưa với những công dụng quý giá mà nó màn đến. Mẹ thiên nhiên luôn ban tặng cho con người những gì quý giá
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
nhỏ|592x592px|Bản đồ các phương ngôn tiếng Hán tại Trung Quốc và Đài Loan. Tiếng Trung Quốc Tiêu chuẩn dựa phần lớn trên phương ngôn Bắc Kinh của tiếng [[Quan thoại.]] **Tiếng Trung Quốc tiêu chuẩn**,
**Người Hán** (, Hán Việt: Hán nhân; , Hán Việt: Hán tộc) còn gọi là **người Hoa, người Tàu**, **người Trung Quốc**, **người Trung Hoa**, **người Hoa Hạ** là một nhóm dân tộc và quốc
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
phải|Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43 sau Công nguyên). **Khởi nghĩa Hai Bà Trưng** là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Trận Vũ Hán** () hay **Trận phòng thủ Vũ Hán** () theo cách gọi của người Trung Quốc và **Cuộc tấn công Vũ Hán** () theo cách gọi của người Nhật là một trận đánh
Quan điểm 1: Phạm vi tương đối của Trung Quốc bản thổ vào cuối thời [[nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Theo quan điểm hiện nay; đây là lãnh thổ Trung Quốc
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
Wellness From Within121 Nguyễn Cơ ThạchQuận 2, TP Hồ Chí Minh(+84) 934070169Viên uống chiết xuất Nhân sâm Hàn Quốc tăng cường miễn dịch, ngăn lão hóa của Anh (hộp 50-100 viên)Holland & Barrett High Strength
Wellness From Within121 Nguyễn Cơ ThạchQuận 2, TP Hồ Chí Minh(+84) 934070169Viên uống chiết xuất Nhân sâm Hàn Quốc tăng cường miễn dịch, ngăn lão hóa của Anh (hộp 50-100 viên)Holland & Barrett High Strength
**Giải vô địch thế giới _Liên Minh Huyền Thoại**_ (tiếng Anh: _**League of Legends_ World Championship**) là một giải đấu thể thao của trò chơi điện tử _Liên_ _Minh_ _Huyền_ _Thoại_ được tổ chức hàng
phải|nhỏ| Chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai trong [[Chiến lược chuỗi đảo của Mỹ, được nghiên cứu bởi các chiến lược gia quân sự Trung Quốc để tránh bị bao vây ]] **Chính sách
Tinh dầu thông đỏ Samsung Hàn Quốc – Bạn đồng hành cùng người cao tuổi Những thông tin đầy đủ nhất về sản phẩm Tinh dầu Thông đỏ Samsung Hàn Quốc, một sản phẩm dinh
Cuộc sống càng phát triển sẽ cuốn con người vào vòng xoáy của bộn bề công việc, khiến bạn không có nhiều thời gian cho chăm sóc sức khỏe gia đình và bản thân. Cũng
Cuộc sống càng phát triển sẽ cuốn con người vào vòng xoáy của bộn bề công việc, khiến bạn không có nhiều thời gian cho chăm sóc sức khỏe gia đình và bản thân. Cũng
**Phương án bính âm Hán ngữ** (giản thể: 汉语拼音方案, phồn thể: 漢語拼音方案, Hán Việt: _Hán ngữ bính âm phương án_), thường gọi ngắn là **bính âm**, **phanh âm** hay **pinyin**, là cách thức sử dụng
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
Trong suốt quá trình lịch sử phát triển của mình, **Trung Quốc** có rất nhiều tên gọi khác nhau, kể cả xuất phát từ bên trong lẫn bên ngoài lãnh thổ của nó, và mỗi
**Viên Thế Khải** (; 1859 - 1916), tự là **Uy Đình** (慰亭), hiệu là **Dung Am** (容庵); là một đại thần cuối thời nhà Thanh và là Đại Tổng thống thứ hai của Trung Hoa
**Chư hầu** là một từ xuất phát từ chữ Hán (諸侯), trong nghĩa hẹp là để chỉ tình trạng các vị vua của các quốc gia thời Tiên Tần bị phụ thuộc, phải phục tùng
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán