✨Giáo hoàng Giuliô II

Giáo hoàng Giuliô II

Giuliô II (Latinh: Julius II) là vị giáo hoàng thứ 216 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu chọn làm Giáo hoàng năm 1503 và ở ngôi Giáo hoàng trong 9 năm 3 tháng 20 ngày.

Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông trở thành Giáo hoàng ngày 31 tháng 10 năm 1503, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên Chúa là ngày 26 tháng 11 và ngày kết thúc sứ vụ của ông là ngày 21 tháng 2 năm 1513.

Trước khi trở thành giáo hoàng

Giáo hoàng Julius II tên thật là Giuliano della Rovere, sinh ngày 5 tháng 12 năm 1443 tại Albisola trong một gia đình quý tộc nghèo là Nhà Della Rovere, là con của Raphael della Rovere và Theodora Manerola và là cháu của Giáo hoàng Sixtus IV.

Năm 1471, Giuliano được vinh thăng làm Hồng y của vương cung thánh đường San Pietro in Vincoli. Ông đã giữ chức giám mục (hoặc tổng giám mục) của nhiều giáo phận (tổng giáo phận) trong giai đoạn 1471-1503. Trong giai đoạn đó, ông làm Giám mục của Lausanne cho đến năm 1476, rồi làm Giám mục của Coutances là giáo phận mà ông từ bỏ vì cháu ông là Galéas della Rovere năm 1477. Ông là một người đối nghịch không đội trời chung với Giáo hoàng Alexander VI. Trong suốt triều Giáo hoàng của Alexander, ông không hề đặt chân đến Rome.

Lúc làm Hồng y, ông tuy ở độc thân, song rất phóng túng; dính líu vào nhiều vụ tranh chấp vô tận về chủ quyền trên các đô thị và tiểu quốc, nên đã duy trì và tự mình điều khiển những đạo quân đông đúc; được gọi là Giáo hoàng Chiến sĩ; cấp phát phiếu ân xá (indulgences).

Ông đã có ít nhất một con gái ngoài giá thú, Felice della Roverè (s. năm 1483, hai mươi năm trước khi cuộc bầu cử của ông diễn ra). Một số nguồn cho biết ông đã có thêm hai người con gái bất hợp pháp nữa, nhưng đều đã chết ngay từ khi còn nhỏ.

Bên cạnh đó, một số tác giả đương đại (có thể nhằm bôi nhọ) đã cáo buộc ông tội kê gian. Theo công đồng ly khai Pisa năm 1511, ông là một "người kê gian với những vết nhơ đáng xấu hổ" trái|nhỏ|Hồng y Giuliano della Rovere (trái) và Francesco della Rovere, tức là [[Giáo hoàng Xíttô IV|Giáo hoàng Sixtus IV (phải)]]

Giáo hoàng

Một cuộc bầu cử chớp nhoáng, hầu như mọi người đồng ý (37/38 người bỏ phiếu) nhưng không khỏi có sự mua chuộc, đã đưa hồng y Giuliô de la Rovère, 60 tuổi, lên ngôi Giáo hoàng ngày 1 tháng 11 năm 1503. Người ta cho rằng ông đã mua chức vị Giáo hoàng, vì ông là Hồng y giàu nhất, thâu lợi tức rất lớn do nhiều địa phận Giám mục và nhiều bất động sản của Hội Thánh.

Về mặt chính trị

Ông có đức tính cương trực, nóng nảy thế tục. Sự khát vọng quyền bính cho ngôi Giáo hoàng và sự ham thích nghệ thuật là hai yếu tố thúc đẩy ông làm việc không biết mệt mỏi. Nhiệm vụ chủ chăn Giáo hội bị đặt xuống hàng thứ yếu.

Sau những năm bị dòng tộc Borgia thống trị, vị tân Giáo hoàng hiến mình cho công việc giải phóng Tòa Thánh về phương diện chính trị và củng cố uy quyền thiêng liêng của mình trên sức mạnh quân sự. Ông chuyên tâm mở rộng đất đai của Tòa thánh và không ngần ngại thực hiện những vụ phản bội và ám sát chính trị.

Là nhà chính trị, ông đã loại được César Borgia – con cả của Giáo hoàng Alexander VI - bằng cách trục xuất ông ta ra khỏi Hồng y đoàn, buộc César phải trả lại các chiến lũy và trốn qua nước Pháp. Trong một chiến dịch do ông đích thân cầm quân, đã tái chiếm được Perusa và Bolonia (1506) lúc đó đang do Bentivoglio chiếm giữ. Ông tự phóng thích mình khỏi quyền lực của Venise (Liên minh Cambrai, 1508).

Việc gia nhập liên minh Cambarai gồm có hoàng đế Maximilian I (1493-1519), nước Pháp, Tây Ban Nha và một vài nước khác đã giúp ông thu hồi tỉnh Romania (1509). Ông tuyên cáo một sắc chỉ rút phép thông công Venise ngày 27 tháng 4 năm 1509. Quân Pháp chiến thắng ở Agnadel ngày 14 tháng 5 năm 1509. Lo lắng về những sự lớn mạnh của Louis XII, Giáo hoàng biểu lộ ý muốn đuổi những người nước ngoài ra khỏi Italia.

Giáo hoàng giải hòa với Venise sau khi trả lại Faenza và Ravenna tháng 2 năm 1510; liên kết với hồng y của Sion là Matheu Schiner, đối thủ của người Pháp và là người đang hoạt động trên các bang của Thụy Sĩ.

Sau đó, đức Julius II dấn thân vào một công việc vô cùng nguy hiểm là đánh đuổi người Pháp đang chiếm đóng thành Milan ra khỏi nước Ý. Các vệ sĩ Thuỵ Sĩ được Julius II làm thành một đội quân chính thức.

Trước hết, ông thanh toàn Alfonso Este, chồng của Lucrecia Borgia, quận công xứ Ferrara và là đồng minh của nước Pháp. Vua Louis XII (1495-1415) nước Pháp ra tay đối phó bằng việc truyền cho quốc dân của mình cắt liên lạc với Roma và họp công đồng tại thành Tours (1510) chống Julius II.

Công đồng 1512

Mùa thu năm 1511, năm hồng y bất mãn cùng họp công đồng Pisa và đứng về phe vua nước Pháp. Kế đó, thêm hoàng đế Maximilian I, là người bấy giờ có tham vọng được hồng y đoàn bầu làm Giáo hoàng khi đức Julius II lâm bệnh nặng vào tháng 8 năm 1511. Sau nhiều lần do dự, vì sợ rằng công đồng sẽ cướp quyền của đức Giáo hoàng hoặc sợ bị nhà cầm quyền dân sự kiểm soát. Nhưng đứng trước tình thế trên và nhớ lại lời hứa tại hội đồng tuyển cử năm 1503, là trong vòng hai năm sẽ triệu tập đại công đồng. Cuối cùng Đức Giáo hoàng Julius II quyết định triệu tập Công Đồng Latêranô V ở Rôma năm 1512.

Công đồng Chung XVIII. Công đồng khai mạc ngày 23.5.1512 quy tụ 15 hồng y và 79 Giám mục phần nhiều người Ý, ngoài ra có vua nước Anh và Aragon, đến sau thêm hoàng đế Maximilian. Sự triệu tập Công đồng Latran V của ông vào năm 1512 có lẽ đã có thể cho phép ông canh tân Giáo hội, lên án các lạm dụng trong Giáo hội và đề ra một dự án cải tổ, nhưng không kết quả.

Trong công đồng này đã lên án thuyết thượng tôn công đồng (concilliarisme) đồng thời lên án nhóm hồng y "ly khai" họp ở Pisa, bây giờ đã chuyển sang Milan. Công đồng bế mạc tháng 3-1517, thì ngày 31-10 năm đó, Luther niêm yết bản 95 đề tài chống ân xá tại nhà thờ Wittenberg.

Xây dựng và nghệ thuật

phải|nhỏ|Julius II xem các hạng mục công trình [[Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.]] Giáo hoàng Julius II đặt viên đá đầu tiên cho Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở Roma và thuê Bernini, Raphael, và Michaelangelo - những nghệ nhân vĩ đại của thế giới thời ấy- cung cấp các tác phẩm điêu khắc, hội họa, kiến trúc cho thánh đường. Tuy nhiên, phí tổn lớn lao này đã khiến các Giáo hoàng không còn lưu tâm đến tình hình tâm linh kiệt quệ của Giáo hội.

Cho đến năm 1506, Nhà thờ Thánh Phêrô, nhà thờ chính ở Vatican vẫn còn rất nhỏ và ọp ẹp. Học theo các hoàng đế và sultan, Giáo hoàng Julius II quyết định tạo cho nhà thờ xưa cũ một mái vòm. Ông thuê kiến trúc sư Donato Bramante làm việc này. Ý tưởng của Bramante khá đơn giản: một chữ thập kiểu Hy Lạp với những cánh toả ra chung quanh mái vòm trung tâm. Nhưng cả Bramante lẫn Giáo hoàng đều qua đời trước khi công trình được hoàn thành. Năm 1546, một chàng nghệ sĩ trẻ từ Florence có tên Michelangelo được toàn quyền xây Nhà thờ Thánh Phêrô, nhà thờ lớn nhất của đạo Thiên chúa giáo.

Michelangelo đã thiết kế lên một mái vòm khiến cho công trình Pantheon gần đó cũng phải lu mờ. Về đường kính thì nó nhỏ hơn Pantheon, nhưng cao hơn nhiều. Làm gần như hoàn toàn bằng đá nặng, công trình vòm có đường kính 42 m và chiều cao 138 m. Để đỡ được một mái vòm khổng lồ như thế, các thợ xây phải đặt 3 vòng sắt bên trong lớp đá của mái vòng. Công trình được hoàn thành vào năm 1590. Tuy nhiên, về sau những vết rạn đã xuất hiện xung quanh chân mái vòm. Đến thế kỷ 16, các kỹ sư của Vatican phải thêm vài vòng đỡ khác, trong một đợt sửa chữa khẩn cấp. May sao, giải pháp này đã đương đầu được với thời gian.

Giuliô II cho xuất bản một bản phê bình tác phẩm Dante và tập hợp thành một sưu tập lớn các thủ bản. Ông đã cho thành lập hiệu cầm đồ (pawnshop).

Qua đời

Mặc dù chiến thắng ở Ravenna, ngày 11 tháng 4 năm 1512, quân Pháp rút khỏi Parme và Plaisance cho Tòa thánh. Vừa mới thân thiện lại với hoàng đế Maximilianô, dẫn đến việc Venise liên minh với Louis XII thì Giáo hoàng Julius II qua đời. Là con người có tâm hồn nghệ sĩ, đức Julius II đã thực hiện những công trình vĩ đại. Người ta vẫn còn ghi nhớ ông là người đã bảo trợ của thời Phục hưng: Raphael, Bramante và Micael Angêlô đã làm việc nhờ dựa vào ông (kiến trúc đền thờ Thánh Phêrô, các bức bích họa ở nhà thờ Sixtin v.v...).

Julius II cũng là đối tượng của những buổi trình diễn nhiều vở kịch hề và kịch luân lý ở nước Pháp, trong đó, những vở kịch nổi tiếng nhất là Chasse du cerf des cerfs và Jeu du Prince des Sots của Pierre Gringoire hay Grigore có từ năm 1512. Jean Lemaire de Belge đã xuất bản một Chuyên luận về các Công đồng và các ly giáo, bênh vực Louis XII.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giuliô II** (Latinh: **Julius II**) là vị giáo hoàng thứ 216 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu chọn làm Giáo hoàng năm 1503 và ở
**Giáo hoàng Giuliô** có thể là: *Giáo hoàng Giuliô I (337–352) *Giáo hoàng Giuliô II, (1503–1513) Giáo hoàng Chiến sĩ **Giáo hoàng Giuliô (trò chơi), một trò chơi bài đặt tên theo Giáo hoàng Giuliô
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Giuliô III** (Latinh: **Jules III**) là vị giáo hoàng thứ 221 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1550 và ở ngôi Giáo
**Sixtô IV** (Latinh: **Sixtus IV**) là vị giáo hoàng thứ 212 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1471 và ở ngôi Giáo
**Innôcentê VIII** (Latinh: **Innocens VIII**) là vị giáo hoàng thứ 213 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1484 và ở ngôi Giáo
**Piô III** (Latinh: **Pius III**) là vị giáo hoàng thứ 215 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1503 và ở ngôi Giáo
**Alexanđê VI** (1 tháng 1 năm 1431 – 18 tháng 8 năm 1503) (Tiếng Latinh: _Alexander VI_, tiếng Tây Ban Nha: _Alejandro VI_, tiếng Catalan: _Alexandre VI_) là vị giáo hoàng thứ 214 của giáo
**Lêô X** (Latinh: **Leo X**) là vị giáo hoàng thứ 217 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1513 và ở ngôi Giáo
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Giuliô Riyadi Darmaatmadja S.J** (Sinh 1934) là một hồng y người Indonesia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Jakartar, Tổng giáo phận Semarang, Tổng tuyên úy
Trong suốt lịch sử, một số thành viên của các gia tộc quân chủ và quý tộc có quan hệ cùng giới. Ngay cả ở những khu vực tài phán mà đồng tính luyến ái
**Gia đình Borgia** ( , ; tiếng Tây Ban Nha và ; ) từng là một gia đình quý tộc gốc Tây Ban Nha - Aragon, đã vuơn tới đỉnh cao quyền lực ở nước
**Nhà Farnese** (, also , ) là một hoàng tộc có ảnh hưởng ở Bán đảo Ý thời Phục hưng. Các nhà cai trị của Công quốc Parma và Công quốc Castro đều có nguồn
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
phải|Khăn liệm Turin. **Khăn liệm Turin** hoặc **Vải liệm Turin** (tiếng Ý: _Sindone di Torino, Sacra Sindone_) là một tấm vải lanh mang hình ảnh của một người đàn ông dường như đã bị chấn
**Anne Boleyn** (tiếng Latinh: _Anna Bolina_; tiếng Tây Ban Nha: _Ana Bolena_; 1501 / 1507 – 19 tháng 5 năm 1536) là một quý tộc người Anh, vợ thứ hai của Henry VIII của Anh,
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
Habemus Papam Giáo hoàng Phanxicô (2013) **Habemus Papam **("Chúng ta đã có Giáo hoàng!") là lời công bố bằng tiếng Latinh do hồng y thị thần đưa ra khi một Mật nghị Hồng y đã
**Maximilian I của Thánh chế La Mã** (22 tháng 3 năm 1459 - 12 tháng 1 năm 1519) là một vị Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1508 đến khi qua đời, và
**_Mary Rose_** là một tàu chiến của Hải quân Anh dưới thời vua Henry VIII triều nhà Tudor. Sau 33 năm phục vụ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Scotland, và Bretagne và sau
**Anna**, thuộc dòng dõi vua David, là mẹ của Maria và bà ngoại của chúa Giêsu theo các ngụy thư Kitô giáo và Hồi giáo truyền thống. Mẹ của Maria không có tên trong các
Đại sảnh Constantinus Phòng Heliodorus Bốn gian **phòng Raffaello** () tạo thành một dãy phòng chức năng lễ tân bên trong Điện Tông Tòa, nay là một phần của Bảo tàng Vatican tại Thành Vatican.
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
nhỏ| [[Raffaello|Các bức bích họa trong Dãy phòng Raffaello của Điện Tông tòa ở Vatican, do Giáo hoàng Giuliô II ủy nhiệm cho Raffaello và xưởng vẽ của ông thực hiện. ]] nhỏ| _[[Sự tạo
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Đại Vương cung thánh đường Giáo tông Thánh Phêrô tại Vatican** (tiếng Ý: _Basilica Papale maggiore di San Pietro in Vaticano_) hay đơn giản là **Vương cung thánh đường Thánh Phêrô** (tiếng Latinh: _Basilica Sancti
**Công quốc Mantua** (tiếng Ý: _Ducato di Mantova_; tiếng Lombard: _Ducaa de Mantua_) là một công quốc ở Lombardia, miền Bắc nước Ý ngày nay. Công tước đầu tiên của nó là Federico II Gonzaga,
nhỏ|phải|Truyện tranh Mỹ có cảnh về dị giáo phái nhỏ|phải|Vỡ diễn The Galactic Overlord của [[Khoa luận giáo]] **Dị giáo phái trong văn hóa đại chúng** (_New religious movements and cults in popular culture_) là
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
Ngày **5 tháng 12** là ngày thứ 339 (340 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 26 ngày trong năm. ## Sự kiện *334 – Chỉ vài tháng sau khi kế vị chú là Lý
**Nhà nguyện Sistina** (; tiếng Latinh: Sacellum Sixtinum; tiếng Ý: Cappella Sistina ; tiếng Anh: Sistine Chapel) là một nhà nguyện trong Điện Tông Tòa, ở Thành Vatican. Ban đầu được gọi là _Cappella Magna_
Ngày **1 tháng 11** là ngày thứ 305 (306 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 60 ngày trong năm. ## Sự kiện *604 – Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản ban hành quan
**Vệ binh Thụy Sĩ Giáo hoàng**, thường được gọi là **Vệ binh Thụy Sĩ,** là lực lượng vũ trang, đội danh dự và đơn vị cận vệ của Tòa Thánh Vatican, có nhiệm vụ bảo
phải|nhỏ|Thánh tích được giữ bên dưới bàn thờ bên trong Nhà thờ Thánh Phêrô Bị Xiềng Xích. **San Pietro in Vincoli** () hay **Nhà thờ Thánh Phêrô Bị Xiềng Xích** là một nhà thờ hiệu
**Donato Bramante** (1444 – 11 tháng 3 năm 1514) là một kiến trúc sư người Ý, người đã giới thiệu kiến trúc Phục Hưng tới Milan và phong cách High Renaissance tới Rome. Bản thiết
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:John_Paul_II_funeral_long_shot.jpg|nhỏ|288x288px|**Các hồng y mặc [[Phẩm phục Công giáo|phẩm phục đỏ trong lễ tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II**]] **Hồng y đoàn**, chính thức là **Hồng y thánh đoàn**, là cơ quan của tất cả các
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
thumb|right|Siri năm 1958, trước mật nghị hồng y một thời gian ngắn **Luận điểm Siri** là một luận điểm khẳng định Hồng y Giuseppe Siri, Tổng giám mục nổi tiếng bảo thủ của Tổng giáo
**George Frideric Handel** (tiếng Đức: **Georg Friedrich Händel**; hoặc **Georg Frederick Handel** ) (23 tháng 2 năm 1685 – 14 tháng 4 năm 1759) là nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức thuộc thời kỳ
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Tiziano Vecelli** hay **Tiziano Vecellio**, tiếng Việt phiên âm là **Ti-xiêng** (khoảng 1473/1490 – 27 tháng 8 năm 1576 thường được biết đến hơn với tên gọi **Titian** () là một danh họa Italia, người
**Élisabeth của Pháp** hay còn biết đến với tên gọi là **Élisabeth của Valois** hay **Isabel của Hòa Bình** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_/_Isabel de Valois_/_Isabel de la Paz_; tiếng Pháp: _Élisabeth de