Giá trị là một khái niệm trừu tượng, là ý nghĩa của sự vật trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Tạm thời có thể xem giá trị kinh tế của sự vật liên quan mật thiết đến ba mặt chính yếu của nhu cầu là sản xuất, tiêu thụ, sở hữu, của chủ thể kinh tế ở bất kỳ cấp bậc nào (cá nhân, công ty, nhà nước, toàn thế giới).
Các sự vật có khả năng thỏa mãn nhu cầu con người ở dạng đơn lẻ, riêng biệt, nhưng giá trị của chúng được liên kết lại thành hệ thống thông qua sự tương tác của các nhu cầu chính yếu nói trên.
Khái niệm
Giá trị của hàng hoá là một thuộc tính của hàng hoá, đó chính là lao động hao phí của người sản xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh vào trong hàng hoá. Để hiểu khái niệm này, phải đi từ sự trao đổi và giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ lệ theo một giá trị sử dụng loại hàng hoá này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác. Ví dụ 1 m vải có thể đổi được 4 kg gạo. Gạo và vải, tại sao lại trao đổi được với nhau, hơn nữa lại trao đổi được theo một tỉ lệ nhất định như vậy, rõ ràng nó phải có một cơ sở chung, đó không phải là giá trị sử dụng của chúng vì vải và gạo có giá trị sử dụng hoàn toàn khác nhau, cái chung đó là cả vải và gạo đều là sản phẩm của lao động, do lao động (thời gian lao động và công sức lao động) được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá.
Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh tế chính trị. Nếu xét nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn đạt được lý lẽ hoàn chỉnh. Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân khác nhau vẫn đảm bảo cơ sở cho trao đổi. Ví dụ: nhu cầu ăn và mặc có trong hai cá nhân A và B, trong lúc A sở hữu áo và B sở hữu gạo thì nhu cầu chung kia sẽ tạo tiền đề cho trao đổi, tỷ lệ trao đổi tùy thuộc rất nhiều yếu tố: vị thế, độ bức xúc nhu cầu, thói quen tâm lý, quy định xã hội v.v., vì thế tỷ lệ trao đổi sẽ là ngẫu nhiên nhưng mang tính ổn định nhất định.
Phân biệt
Cần phân biệt giữa giá trị với Giá trị sử dụng, Giá trị trao đổi và Giá cả.
Karl Marx cho rằng sản phẩm lao động mang giá trị sử dụng và giá trị tiềm năng - phần giá trị của sản phẩm dôi dư mà cá thể tạo ra chúng nhưng không tiêu thụ hết. Khi tham gia vào quá trình trao đổi giá trị sử dụng giãn rộng ra phần giá trị tiềm năng và tạo thành giá trị trao đổi. Có thể hiểu rằng, giá trị trao đổi vẫn chỉ là giá trị sử dụng trong quy mô xã hội, ở đó diễn ra sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa.
Giá trị sử dụng được biểu hiện bằng tiền nếu xã hội áp dụng định chế tiền tệ, đó là giá cả. Xuất phát từ đây ý nghĩ về quy luật giá trị, hay là "giá cả xoay quanh giá trị". Có thể suy ra rằng sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả chính là phần giá trị tiềm năng. Như vậy phạm trù giá trị không chỉ thu hẹp trong phạm vi trao đổi vì giá trị tiềm năng chưa thuộc quan hệ trao đổi. Nghĩa là không thể phân định được ranh giới giữa giá trị kinh tế, theo Marx K. và những nhà kinh tế học cổ điển khác, và giá trị nói chung.
Định lượng
Định lượng giá trị là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế lý thuyết. Các nhà kinh tế chính trị cổ điển và Marx K. cho rằng tính chất chung của giá trị xuất phát từ lao động. Giá trị lao động được đo bằng thời gian lao động. Giá trị của hàng hóa là lượng lao động trung bình cần thiết để sản xuất hàng hóa đó. Tuy nhiên lý thuyết này không giải thích được giá trị của tài nguyên, yếu tố chưa liên quan đến lao động.
Trường phái hiệu dụng biên cho rằng cơ sở giá trị của sản phẩm là tính ích dụng và sự khan hiếm. Tính ích dụng đối với từng cá nhân và ở những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau cũng khác nhau. Nhờ vào lý thuyết cận biên trong toán học được lập ra ở cuối thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu của trường phái này đã giải thích hoàn chỉnh nguồn gốc giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên học thuyết này cũng gặp phải sự phê phán khi bỏ qua vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị.
Lý thuyết hiện đại về giá trị giải quyết những vướng mắc trong định lượng giá trị bằng cơ chế cung-cầu. Đó là đóng góp của Alfred Marshall với nguyên lý cung cầu của ông. Tuy nhiên học thuyết này dựa trên tiên đề về "sự cân bằng kinh tế" mà hiện nay nhiều nhà nghiên cứu ngờ vực, có hai loại định nghĩa về giá cả đó là
- Giá cả là người mua trả cho người bán để được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ
- Giá cả là khoản thu nhập mà người bán nhận được khi tiêu thụ một loại sản phẩm dịch vụ.
Theo chế độ kế toán IVSC giá cả là số tiền được đưa ra yêu cầu đối với một loại sản phẩm dịch vụ. Giá trị thị trường là số tiền trao đổi ước tính về tài sản tại thời điểm thẩm định giá giữa một bên là người bán sẵn sàng bán với một bên là người mua sẵn sàng mua, sau một quá trình tiếp thị công khai, mà tại đó các bên hành động khách quan, hiểu biết và không bị ép buộc. Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán trên thị trường
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giá trị** là một khái niệm trừu tượng, là ý nghĩa của sự vật trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Tạm thời có thể xem giá trị kinh tế của
**Kinh tế học chuẩn tắc** (tiếng Anh: _Normative economics_) (trái ngược với kinh tế học thực chứng) là một phần của kinh tế học có mục tiêu là công bằng hoặc kết quả của nền
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế học môi trường** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đề cập đến những vấn đề môi trường (thường còn được sử dụng bởi các thuật ngữ khác). Khi sử
**Kinh tế học quản trị** (tiếng Anh: _Managerial Economics_, hay còn gọi là _Business Economics_) - là việc ứng dụng lý thuyết kinh tế và các công cụ phân tích của khoa học ra quyết
**Kinh tế học thông tin** là một nhánh của lý thuyết kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hệ thống thông tin và thông tin ảnh hưởng đến một nền kinh tế và các
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Kinh tế học thực nghiệm** (_experimental economics_) là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu các câu hỏi kinh tế. Dữ liệu thu thập được trong các thí nghiệm được sử
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Kinh tế học thực chứng** (tiếng Anh: _Positive economics_) trái ngược với kinh tế học chuẩn tắc là một nhánh của kinh tế học, đề cập đến những tuyên bố mang tính khách quan. Tức
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Kinh tế học tiền tệ** là một nhánh của kinh tế học, nghiên cứu các lý thuyết cạnh tranh khác nhau của tiền tệ: nó cung cấp một khuôn khổ để phân tích tiền và
**Kinh tế học nông nghiệp** là một lĩnh vực kinh tế ứng dụng liên quan đến việc áp dụng lý thuyết kinh tế trong việc tối ưu hóa sản xuất và phân phối thực phẩm
Trong kinh tế học, **đất** bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới
**Kinh tế học phúc lợi** là một lĩnh vực nghiên cứu của kinh tế học, trong đó nghiên cứu những vấn đề tiêu chuẩn, cách thức hoạt động kinh tế để làm cho phúc lợi
**Kinh tế học sinh thái,** hoặc **sinh thái kinh tế,** vừa là lĩnh vực nghiên cứu khoa học xuyên ngành vừa là khoa học liên ngành giải quyết các sự phụ thuộc lẫn nhau và
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
**Luật pháp và Kinh tế** hay **phân tích khía cạnh kinh tế trong pháp luật** là việc áp dụng các lý thuyết kinh tế (đặc biệt lý thuyết kinh tế vi mô) để phân tích
Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế học, **hiệu ứng lấn át** trong kinh tế là hiện tượng xảy ra khi sự tham gia của chính phủ trong một lĩnh vực nào
**Lao động**, trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này
**Kinh tế học đô thị** là một chuyên ngành kinh tế học ứng dụng từ kinh tế học vi mô có đối tượng nghiên cứu là các đô thị. Kinh tế học đô thị xem
**Kinh tế học phát triển** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đi tìm các phương thức để đưa một nền kinh tế kém phát triển thành một nền kinh tế thịnh
**Kinh tế học xã hội chủ nghĩa** bao gồm các lý thuyết, thực tiễn và chuẩn mực kinh tế của các hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa giả định và hiện có. Hệ
Anh Triệu Hoàng Thành, tổ 10, phường Đề Thám (Thành phố) là tấm gương tiêu biểu đi đầu trong khởi nghiệp từ mô hình sản xuất nho thương phẩm có giá trị kinh tế cao
**Kinh tế học Phật giáo** (tiếng Anh: _Buddhist economics_) là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
**Kinh tế chính trị quốc tế** () là môn học thuộc ngành khoa học chính trị, nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
**Giá trị lưu trữ** là bất kỳ loại hàng hóa hay tài sản có khả năng giữ được sức mua trong tương lai. Đây cũng là chức năng của tài sản được lưu giữ, khôi
**Triết học, Chính trị học và Kinh tế học** (tiếng Anh: **_Philosophy, Politics and Economics_**, viết tắt: **_PPE_**) là một khóa học liên ngành, trong đó bao gồm các lĩnh vực triết học, khoa học
**Kinh tế kế hoạch** (còn được gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế-xã hội trong đó Chính phủ và Nhà nước kiểm
nhỏ|Cây kinh tế học không chính thống. **Kinh tế học phi chính thống** là bất kỳ tư tưởng hay lý thuyết kinh tế nào tương phản với các trường phái tư tưởng kinh tế chính
**Kinh tế học thể chế mới** (tiếng Anh: **New institutional economic**) là một trào lưu kinh tế học hiện đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp
**Giá trị** là khái niệm có thể đề cập đến: *Giá trị quan—là những nguyên tắc, chuẩn mức, tiêu chuẩn chỉ dẫn cho hành động của con người *Giá trị (kinh tế học) *Giá trị
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Kinh tế chia sẻ** là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Lý thuyết giá trị** hay **thuyết giá trị** là bất kỳ lý thuyết kinh tế nào cố gắng giải thích giá trị trao đổi hoặc giá cả của hàng hóa và dịch vụ. Các câu
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng