Kinh tế học thực chứng (tiếng Anh: Positive economics) trái ngược với kinh tế học chuẩn tắc là một nhánh của kinh tế học, đề cập đến những tuyên bố mang tính khách quan. Tức là nó tập trung vào việc mô tả, định lượng và giải thích các hiện tượng kinh tế. Nó đề cập đến các sự kiện thực nghiệm cũng như mối quan hệ nhân quả và nhấn mạnh rằng các lý thuyết kinh tế phải phù hợp với các quan sát hiện có và đưa ra các dự đoán chính xác, có thể kiểm tra được về các hiện tượng được đề cập. Kinh tế học thực chứng với tư cách là một ngành khoa học liên quan đến việc phân tích các hành vi kinh tế để xác định điều gì là đúng . Có thể lấy ví dụ về một nhận định thực chứng là "tỷ lệ thất nghiệp ở Pháp cao hơn ở Hoa Kỳ" hoặc "chính phủ tăng chi tiêu sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp." Một trong hai điều này có thể bị làm giả và có thể bị mâu thuẫn bởi bằng chứng. Kinh tế học thực chứng như vậy tránh được các phán đoán chủ quan. Ví dụ, lý thuyết kinh tế thực chứng có thể mô tả cách tăng cung tiền ảnh hưởng đến lạm phát, nhưng nó không đưa ra bất kỳ chỉ dẫn nào về chính sách nên được áp dụng. Điều này trái ngược với các nhận định kinh tế chuẩn tắc, trong đó một ý kiến được đưa ra. Ví dụ: “Chi tiêu của chính phủ nên được tăng lên ”là một tuyên bố mang tính chuẩn tắc (chủ quan).
Định nghĩa
Nhiều nhà kinh tế học thế kỷ 20 đã nhấn mạnh khía cạnh khoa học, thực chứng của kinh tế học để chỉ ra rằng các lý thuyết kinh tế có thể trả lời các câu hỏi với cùng một phương pháp luận khoa học như khoa học vật lý.
“The Scope and Method of Political Economy” (Phạm vi và Phương pháp của Kinh tế Chính trị) của John Neville Keynes đã định nghĩa kinh tế học thực chứng là khoa học về " là cái gì" so với kinh tế học chuẩn tắc, nghiên cứu về "nên là gì". Keynes không phải là người đầu tiên đưa ra sự phân biệt giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc nhưng các định nghĩa của ông đã trở thành tiêu chuẩn trong giảng dạy kinh tế học.
“Foundations of Economic Analysis” (Cơ sở Phân tích Kinh tế) của Paul Samuelson (1947) đưa ra tiêu chuẩn của các lý thuyết có ý nghĩa thông qua kinh tế học thực chứng. Kinh tế học thực chứng thường được dùng để xếp hạng các chính sách hoặc kết quả kinh tế ở mức có thể chấp nhận được.
Milton Friedman, trong một bài luận có ảnh hưởng năm 1953, đã giải thích cặn kẽ về sự khác biệt giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Ông đã định nghĩa mục đích của kinh tế học thực chứng là phát triển các lý thuyết đưa ra các dự đoán hợp lý và chính xác, có thể kiểm chứng được và phù hợp với các bằng chứng thực nghiệm sẵn có. Để làm được điều này, các nhà kinh tế học phải tạo ra một mô hình đơn giản hóa thực tế.
Friedman cũng nhấn mạnh rằng kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc không bao giờ có thể tách rời hoàn toàn vì mối quan hệ của chúng với chính sách kinh tế. Những bất đồng về chính sách kinh tế chủ yếu là do không thể thống nhất về những hậu quả có thể xảy ra của một phần chính sách. Khi kinh tế học phát triển, Friedman tin rằng ngày càng có thể thu được những kết quả không thể tranh cãi về những tuyên bố kinh tế thực chứng và điều này sẽ giúp đưa ra những đánh giá rõ ràng về những cách tốt nhất để đạt được các mục tiêu quy chuẩn như lập pháp tiền lương tối thiểu.
Triết học
Cơ sở phương pháp luận cho sự phân biệt thực chứng hay chuẩn tắc bắt nguồn từ sự phân biệt giá trị thực tế trong triết học. Những người ủng hộ chính của sự khác biệt như vậy bắt nguồn từ David Hume và GE Moore. Hulme đã định nghĩa 'sự thật' là thứ có thể được nhận thức trực tiếp bằng một trong năm giác quan. Tuy nhiên, khoa học thực chứng hiện nay đặt ra những sự thật không thể xác minh theo cách này. John Stuart Mill đã sử dụng sự khác biệt về giá trị thực tế của Hulme để xác định tính khoa học và nghệ thuật của kinh tế học trong A System of Logic .
Cơ sở lôgic của mối quan hệ như một sự phân đôi đã bị tranh cãi trong các tài liệu triết học. Những cuộc tranh luận như vậy được phản ánh trong cuộc thảo luận về khoa học thực chứng.
Hạn chế
Kể từ khi ra đời với tư cách là một ngành học, kinh tế học đã bị chỉ trích vì không phân tách được đầy đủ các khía cạnh khoa học và phi khoa học của nó. Các nhà phê bình như Gunnar Myrdal (1954) và những người ủng hộ Kinh tế học Nữ quyền như Julie A. Nelson, Geoff Schneider và Jean Shackelford, và Diana Strassmann tranh luận rằng kinh tế học có thể hoàn toàn trung lập và thảo luận tự do.
Nelson lập luận rằng nhiều thất bại hiện nay của kinh tế học là kết quả của việc nó không đủ khách quan. Thay vì trung lập, nhiều quan điểm của nó về "chủ đề, mô hình, phương pháp và giảng dạy" bị ràng buộc theo cách tiếp cận "nam tính-giới tính".
Schnedier và Shackelford trong Mười nguyên tắc của kinh tế học nữ quyền đặt vấn đề với định nghĩa kinh tế học như một môn khoa học thực chứng, khách quan. Họ đề xuất rằng các giá trị đóng một vai trò trong tất cả các cấp độ phân tích kinh tế và rằng các loại câu hỏi mà các nhà kinh tế học chọn để điều tra chịu ảnh hưởng của các hệ thống tư tưởng. Ví dụ, nhận định "Mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ" dựa trên giả định về ý thức hệ rằng GDP bình quân đầu người là chỉ số hữu ích nhất để đo lường mức sống.
Hilary Putnam cũng đã chỉ trích chính nền tảng của sự phân đôi thực chứng / chuẩn tắc từ góc độ ngôn ngữ học, cho rằng không thể tách "các phán đoán giá trị khỏi các tuyên bố về sự kiện".
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kinh tế học thực chứng** (tiếng Anh: _Positive economics_) trái ngược với kinh tế học chuẩn tắc là một nhánh của kinh tế học, đề cập đến những tuyên bố mang tính khách quan. Tức
**Kinh tế học thực nghiệm** (_experimental economics_) là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu các câu hỏi kinh tế. Dữ liệu thu thập được trong các thí nghiệm được sử
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Kinh tế học chuẩn tắc** (tiếng Anh: _Normative economics_) (trái ngược với kinh tế học thực chứng) là một phần của kinh tế học có mục tiêu là công bằng hoặc kết quả của nền
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Kinh tế học vi mô** hay là _kinh tế tầm nhỏ_ (Tiếng Anh: _microeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế học môi trường** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đề cập đến những vấn đề môi trường (thường còn được sử dụng bởi các thuật ngữ khác). Khi sử
**Kinh tế học kinh doanh** là một lĩnh vực trong kinh tế học ứng dụng trong đó sử dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp định lượng để phân tích doanh nghiệp và những
**Kinh tế học nông nghiệp** là một lĩnh vực kinh tế ứng dụng liên quan đến việc áp dụng lý thuyết kinh tế trong việc tối ưu hóa sản xuất và phân phối thực phẩm
**Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới** (tiếng Anh: _new classical macroeconomics_) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970.
**Kinh tế học tiền tệ** là một nhánh của kinh tế học, nghiên cứu các lý thuyết cạnh tranh khác nhau của tiền tệ: nó cung cấp một khuôn khổ để phân tích tiền và
Thế kỷ 19 đã bắt đầu xuất hiện những manh nha của **Kinh tế học vĩ mô** (KTHVM). Sự phát triển, thăng trầm của đời sống thương mại đã được một số tác giả ghi
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
**Kinh tế học thông tin** là một nhánh của lý thuyết kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hệ thống thông tin và thông tin ảnh hưởng đến một nền kinh tế và các
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Kinh tế học quản trị** (tiếng Anh: _Managerial Economics_, hay còn gọi là _Business Economics_) - là việc ứng dụng lý thuyết kinh tế và các công cụ phân tích của khoa học ra quyết
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế học, **hiệu ứng lấn át** trong kinh tế là hiện tượng xảy ra khi sự tham gia của chính phủ trong một lĩnh vực nào
**Lao động**, trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này
**Kinh tế học phúc lợi** là một lĩnh vực nghiên cứu của kinh tế học, trong đó nghiên cứu những vấn đề tiêu chuẩn, cách thức hoạt động kinh tế để làm cho phúc lợi
**Kinh tế học giáo dục** là một ngành khoa học trong đó, nghiên cứu làm thế nào để phân bổ nguồn lực khan hiếm một cách tối ưu trong giáo dục để đạt được hiệu
Trong kinh tế học, **đất** bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới
**Kinh tế học Phật giáo** (tiếng Anh: _Buddhist economics_) là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí
**Số nhân** trong kinh tế học là mức độ thay đổi trong tổng cầu khi có một thành phần của tổng cầu thay đổi một đơn vị. ## Ký hiệu *Y: tổng cầu (thu nhập)
nhỏ|Lương trung bình hàng tháng ở các tỉnh Ukraine tháng 7/ 2019 **Dữ liệu** **kinh tế** hoặc **thống kê kinh tế** là dữ liệu (các biện pháp định lượng) mô tả một nền kinh tế
**Kinh tế học sinh thái,** hoặc **sinh thái kinh tế,** vừa là lĩnh vực nghiên cứu khoa học xuyên ngành vừa là khoa học liên ngành giải quyết các sự phụ thuộc lẫn nhau và
## Khái niệm, định nghĩa Đừng nhầm với kinh tế trí thức Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
**Dịch tễ học hội chứng tự kỷ** nghiên cứu về tỷ lệ mắc và phân bố hội chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD). Một đánh giá toàn cầu năm 2012 ước tính tỷ lệ
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Nền kinh tế thực** liên quan đến sản xuất, thu mua, luân chuyển hàng hóa và dịch vụ (như dầu, bánh mì và lao động) trong một nền kinh tế. Nó đối lập với nền
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Kinh tế xã hội** là khoa học xã hội nghiên cứu cách thức hoạt động kinh tế ảnh hưởng và được định hình bởi các quá trình xã hội. Nói chung, nó phân tích cách
nhỏ|275x275px|Biểu đồ minh họa thặng dư tiêu dùng (màu đỏ) và thặng dư sản xuất (màu xanh lam) trên biểu đồ cung và cầu Trong kinh tế học chính thống, **thặng dư kinh tế** (tiếng
**Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế** là sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống kinh tế mà ở đó có sự trao đổi mua bán để có được
Lý thuyết **nền kinh tế Robinson Crusoe** là một lý thuyết nền tảng được dùng để nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong kinh tế. Lý thuyết trên đưa ra giả thuyết về một
**Suy thoái kinh tế** (tiếng Anh: _recession/economic downturn_) được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai
**Hiệu quả kinh tế** là, gần như nói, một tình huống trong đó không có gì có thể được cải thiện mà không có cái gì khác bị tổn thương. Tùy thuộc vào ngữ cảnh,
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người