Kinh tế học thông tin là một nhánh của lý thuyết kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hệ thống thông tin và thông tin ảnh hưởng đến một nền kinh tế và các quyết định kinh tế. Thông tin có những đặc điểm đặc biệt: Nó dễ tạo ra nhưng khó tin tưởng. Nó dễ lây lan nhưng khó kiểm soát. Nó ảnh hưởng đến nhiều quyết định. Những đặc điểm đặc biệt này (so với các loại hàng hóa khác) làm cho nhiều lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn bị phức tạp hóa.
Chủ đề của "kinh tế thông tin" được xử lý theo Tạp chí phân loại Văn học kinh tế JEL D8 – Information, Knowledge, and Uncertainty. Bài báo hiện tại phản ánh các chủ đề được bao gồm trong mã đó. Có một số lĩnh vực của kinh tế thông tin. Thông tin dưới dạng tín hiệu đã được mô tả như một loại thước đo tiêu cực của sự không chắc chắn. Nó bao gồm kiến thức đầy đủ và khoa học như trường hợp đặc biệt. Những hiểu biết đầu tiên về kinh tế thông tin liên quan đến kinh tế của hàng hóa thông tin.
Trong những thập kỷ gần đây, đã có những tiến bộ có ảnh hưởng trong nghiên cứu về sự bất cân xứng thông tin và ý nghĩa của chúng đối với lý thuyết hợp đồng, bao gồm cả sự thất bại của thị trường là một khả năng.
Kinh tế học thông tin chính thức liên quan đến lý thuyết trò chơi là hai loại trò chơi khác nhau có thể áp dụng, bao gồm các trò chơi có thông tin hoàn hảo, thông tin đầy đủ, và thông tin không đầy đủ. Các phương pháp thử nghiệm và lý thuyết trò chơi đã được phát triển để mô hình hóa và kiểm tra các lý thuyết về kinh tế thông tin, bao gồm các ứng dụng chính sách công tiềm năng như thiết kế cơ chế để khơi gợi chia sẻ thông tin và hành vi nâng cao phúc lợi.
Giá trị của thông tin
Điểm khởi đầu để phân tích kinh tế là quan sát rằng thông tin có giá trị kinh tế bởi vì nó cho phép các cá nhân đưa ra lựa chọn mang lại kết quả mong đợi cao hơn hoặc tiện ích dự kiến hơn so với những lựa chọn khi không có thông tin.
Thông tin, cơ chế giá và tổ chức
Phần lớn tài liệu về kinh tế học thông tin ban đầu được lấy cảm hứng từ cuốn " Sử dụng tri thức trong xã hội " của Friedrich Hayek về việc sử dụng cơ chế giá trong việc cho phép phân cấp thông tin để ra lệnh sử dụng hiệu quả tài nguyên. Mặc dù công việc của Hayek nhằm làm mất uy tín hiệu quả của các cơ quan kế hoạch trung ương đối với hệ thống thị trường tự do, đề xuất của ông về cơ chế giá truyền đạt thông tin về sự khan hiếm hàng hóa đã truyền cảm hứng cho Abba Lerner, Tjalling Koopmans, Leonid Hurwicz, George Stigler và những người khác để phát triển hơn nữa lĩnh vực này. kinh tế thông tin. Bên cạnh điều phối thị trường thông qua cơ chế giá, các giao dịch cũng có thể được thực hiện trong các tổ chức. Các yêu cầu thông tin của giao dịch là yếu tố quyết định chính cho (các) cơ chế phối hợp thực tế (hỗn hợp) mà chúng ta sẽ quan sát.
Sự bất cân xứng thông tin
Bất cân xứng thông tin có nghĩa là các bên trong tương tác có thông tin khác nhau, ví dụ một bên có nhiều thông tin hơn hoặc tốt hơn bên kia. Mong đợi phía bên kia có thông tin tốt hơn có thể dẫn đến thay đổi hành vi. Các bên ít thông tin hơn có thể cố gắng ngăn người kia lợi dụng anh ta. Sự thay đổi trong hành vi này có thể gây ra không hiệu quả. Ví dụ về vấn đề này là lựa chọn (bất lợi hoặc thuận lợi) và rủi ro đạo đức.
Một bài báo kinh điển về lựa chọn bất lợi là The Market for Lemons của George Akerlof. Có hai giải pháp chính cho vấn đề này, báo hiệu và sàng lọc.
Đối với rủi ro đạo đức, hợp đồng giữa hiệu trưởng và đại lý có thể được mô tả như một giải pháp tốt thứ hai trong đó chỉ có thể quan sát được các khoản thanh toán với sự bất cân xứng thông tin.
Báo hiệu
Michael Spence ban đầu đề xuất ý tưởng về báo hiệu. Ông đề xuất rằng trong một tình huống có sự bất cân xứng thông tin, mọi người có thể báo hiệu loại của họ, do đó đáng tin cậy chuyển thông tin cho bên kia và giải quyết sự bất cân xứng.
Ý tưởng này ban đầu được nghiên cứu trong bối cảnh tìm kiếm một công việc. Một nhà tuyển dụng quan tâm đến việc thuê một nhân viên mới có kỹ năng học tập. Tất nhiên, tất cả các nhân viên tương lai sẽ tuyên bố là có kỹ năng học tập, nhưng chỉ họ biết nếu họ thực sự có kỹ năng này. Đây là một thông tin bất cân xứng.
Spence đề xuất rằng đi học đại học có thể hoạt động như một tín hiệu đáng tin cậy về khả năng học hỏi. Giả sử rằng những người có kỹ năng học tập có thể học xong đại học dễ dàng hơn những người không có kỹ năng, sau đó bằng cách học đại học, những người có kỹ năng báo hiệu kỹ năng của họ cho các nhà tuyển dụng tiềm năng. Điều này đúng ngay cả khi họ không học được gì ở trường, và trường học chỉ ở đó như một tín hiệu. Điều này hoạt động vì hành động mà họ thực hiện (đi học) dễ dàng hơn đối với những người sở hữu kỹ năng mà họ đang cố gắng báo hiệu (một năng lực học tập).
Sàng lọc
Joseph E. Stiglitz đi tiên phong trong lý thuyết sàng lọc. Bằng cách này, bên thiếu hiểu biết có thể khiến bên kia tiết lộ thông tin của họ. Họ có thể cung cấp một menu các lựa chọn theo cách mà sự lựa chọn tối ưu của bên kia phụ thuộc vào thông tin cá nhân của họ. Bằng cách đưa ra một lựa chọn cụ thể, bên kia tiết lộ rằng anh ta có thông tin làm cho lựa chọn đó trở nên tối ưu. Ví dụ, một công viên giải trí muốn bán vé đắt hơn cho những khách hàng coi trọng thời gian và tiền của họ hơn những khách hàng khác. Yêu cầu khách hàng sẵn sàng trả tiền sẽ không hiệu quả - mọi người sẽ tuyên bố rằng họ sẵn sàng trả thấp hơn. Nhưng công viên có thể cung cấp một loại vé ưu tiên và một loại vé thông thường, trong đó ưu tiên cho phép không phải xếp hàng ở một số trò chơi phổ biến nhưng có giá đắt hơn. Điều này sẽ khiến khách hàng có giá trị thời gian cao hơn sẽ bỏ tiền nhiều hơn để mua vé ưu tiên và do đó tiết lộ loại tư duy của họ.
👁️
5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kinh tế học thông tin** là một nhánh của lý thuyết kinh tế vi mô nghiên cứu cách thức hệ thống thông tin và thông tin ảnh hưởng đến một nền kinh tế và các
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế học thực nghiệm** (_experimental economics_) là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu các câu hỏi kinh tế. Dữ liệu thu thập được trong các thí nghiệm được sử
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới** (tiếng Anh: _new classical macroeconomics_) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970.
**Kinh tế học tiền tệ** là một nhánh của kinh tế học, nghiên cứu các lý thuyết cạnh tranh khác nhau của tiền tệ: nó cung cấp một khuôn khổ để phân tích tiền và
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế học nông nghiệp** là một lĩnh vực kinh tế ứng dụng liên quan đến việc áp dụng lý thuyết kinh tế trong việc tối ưu hóa sản xuất và phân phối thực phẩm
**Kinh tế học thực chứng** (tiếng Anh: _Positive economics_) trái ngược với kinh tế học chuẩn tắc là một nhánh của kinh tế học, đề cập đến những tuyên bố mang tính khách quan. Tức
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Kinh tế học kinh doanh** là một lĩnh vực trong kinh tế học ứng dụng trong đó sử dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp định lượng để phân tích doanh nghiệp và những
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Kinh tế học tổ chức** (còn được gọi là _kinh tế học của tổ chức_; tiếng Anh: _Organizational economics_) liên quan đến việc sử dụng logic của phương pháp kinh tế để hiểu sự tồn
**Kinh tế học vi mô** hay là _kinh tế tầm nhỏ_ (Tiếng Anh: _microeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả
**Kinh tế học gia đình** áp dụng các khái niệm kinh tế như sản xuất, phân công lao động, phân phối và ra quyết định cho nghiên cứu về gia đình. Nó cố gắng giải
**Kinh tế học tình dục** (_Sexual economics_) là một giả thuyết gây nhiều tranh cãi trong lĩnh vực tâm lý học tiến hóa. Lý thuyết này được cho là liên quan đến cách những cá
## Kinh tế học vi mô ;Kinh tế học vi mô là gì? :Kinh tế học :Kinh tế học vi mô :Nguyên lý cung - cầu ;Hành vi của người tiêu dùng :Tiêu dùng :Người
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Trường Sĩ quan Thông tin (TTH)** (_Signal officers collage_) là một trường đại học, trực thuộc Binh chủng Thông tin Liên lạc của Bộ Quốc phòng, là trường đào tạo sĩ quan, trình độ cử
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
**Kinh tế học thể chế mới** (tiếng Anh: **New institutional economic**) là một trào lưu kinh tế học hiện đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Phi đối xứng thông tin** (hay **thông tin phi đối xứng**) (_tiếng Anh: asymmetric information_), trong kinh tế học, là trạng thái bất cân bằng trong cơ cấu thông tin - giữa các chủ thể
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế** là sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống kinh tế mà ở đó có sự trao đổi mua bán để có được
**Hiệu quả kinh tế** là, gần như nói, một tình huống trong đó không có gì có thể được cải thiện mà không có cái gì khác bị tổn thương. Tùy thuộc vào ngữ cảnh,
**Nền kinh tế thực** liên quan đến sản xuất, thu mua, luân chuyển hàng hóa và dịch vụ (như dầu, bánh mì và lao động) trong một nền kinh tế. Nó đối lập với nền
**Kinh tế chính trị** là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị dưới nhãn quan của chính trị
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Chỉ số kinh tế** là thống kê về một hoạt động kinh tế. Các chỉ số kinh tế cho phép phân tích hoạt động kinh tế và dự đoán kết quả hoạt động trong tương
nhỏ|Mã [[ASCII cho từ " Wikipedia " được biểu thị dưới dạng nhị phân, hệ thống số được sử dụng phổ biến nhất để mã hóa thông tin máy tính văn bản]] **Thông tin** có
nhỏ|Lương trung bình hàng tháng ở các tỉnh Ukraine tháng 7/ 2019 **Dữ liệu** **kinh tế** hoặc **thống kê kinh tế** là dữ liệu (các biện pháp định lượng) mô tả một nền kinh tế
**Kinh tế thần kinh học** (kinh tế học não trạng) kết hợp thần kinh học, kinh tế học, tâm lý học để tìm hiểu bằng cách nào con người ra quyết định; xem xét vai
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Suy thoái kinh tế** (tiếng Anh: _recession/economic downturn_) được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai
thumb|Cuộc họp báo công bố người đoạt giải **Nobel kinh tế** 2008 tại Stockholm. Người chiến thắng là [[Paul Krugman.]] **Giải Nobel kinh tế**, tên chính thức là **Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển
**Hội Kinh tế lượng** (tiếng Anh: **The Econometric Society**), một Hội quốc tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của Lý thuyết Kinh tế trong quan hệ với Thống kê học và Toán học, được
**Tin học kinh tế** là một ngành khoa học nghiên cứu, thiết kế, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống truyền thông trong các doanh nghiệp. Với danh nghĩa một
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Kinh tế chia sẻ** là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng
nhỏ|Cổng trường Đại học kinh tế quốc dân (phố Vọng) **Đại học Kinh tế Quốc dân** (tiếng Anh: _National Economics University_, **NEU**) là một đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần