nhỏ|Francis Garnier trên con tem năm 1943 của Liên bang Đông Dương
Marie Joseph François (Francis) Garnier (phiên âm: Phrăng-xít Gác-ni-ê) (25 tháng 7 năm 1839 – 21 tháng 12 năm 1873) là một sĩ quan hải quân người Pháp và đồng thời là một nhà thám hiểm, được biết đến vì cuộc thám hiểm sông Mekong 1866-1868 ở Đông Nam Á. Đối với Việt Nam, tên tuổi Garnier gắn liền với chiến dịch quân Pháp chiếm đóng Bắc Kỳ năm 1873.
Sử Việt cũ thường phiên âm tên Garnier là An Nghiệp (安鄴) hay Ngạc Nhi (鄂㖇).
Năm 1943, Liên bang Đông Dương đã phát hành tem bưu chính để ghi công Garnier.
Tiểu sử
Ông sinh tại St. Etienne, tốt nghiệp trung học (lycée) tại Montpellier, rồi nhập học học viện hải quân (l'Ecole Navale) năm 1855. Ra trường, Garnier gia nhập hải quân Pháp. Sau những chuyến đi tới vùng biển Brasil và Thái Bình Dương ông nhận chức vụ trong ban tham mưu của đô đốc Charner, người chỉ huy cuộc tấn công Nam Kỳ trong những năm 1860 đến 1862.
Sau khi về Pháp nghỉ một thời gian, Garnier trở lại vùng Viễn Đông, và năm 1862 được bổ nhiệm làm thanh tra dân sự tại Nam Kỳ, trong đó có nhiệm vụ quản lý hành chính khu vực Chợ Lớn, khi đó là ngoại ô Sài Gòn. Trong thời gian này Garnier có viết hai tác phẩm: "La Cochinchine" (Nam Kỳ) và "De la colonisation de la Cochinchine" (Về quá trình thực dân hóa Nam Kỳ), trong đó manh nha ý tưởng thám hiểm sông Mê Kông và niềm say mê truyền thống văn hóa Trung Hoa.
Thám hiểm sông Mê Kông
Theo đề nghị của Garnier, hầu tước Chasseloup-Laubat (lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa của chính phủ Pháp) đã quyết định gửi một phái đoàn đi thám hiểm lưu vực sông Mê Kông. Garnier vì còn trẻ tuổi nên đại tá hải quân Ernest Doudart de Lagrée được chọn là chỉ huy còn Garnier làm phó. Đoàn thám hiểm có 3 mục đích chính: khoa học, chính trị và ngoại giao.
Đoàn người khởi hành ngày 5 tháng 6 năm 1866, ngược dòng Cửu Long lên tận Trung Hoa. Chủ tịch Hiệp hội Địa lý Hoàng gia Anh Sir Roderick Murchison có lời khen ngợi Garnier như sau: "từ Kratié tại Campuchia tới Thượng Hải họ vượt 5.392 dặm đường. Chặng đường 3.625 dặm của hơn 5.000 dặm đó phải băng qua vùng hoang dã, đất nước xa lạ, địa lý mù mịt, không ai biết mà họ thực hiện được cuộc khảo sát kỹ lưỡng, định vị địa hình bằng quan sát thiên văn, gần như toàn phần khảo sát là do chính Garnier thực hiện". Cũng vì đó mà Garnier được Hiệp hội Địa lý Hoàng gia Anh trao tặng huy chương Victoria vào năm 1870.
Trong chuyến thám hiểm lưu vực sông Mê Kông, Garnier tình nguyện dẫn một chi đội tới Đại Lý, tỉnh Vân Nam vào tháng 11 năm 1867; lúc bấy giờ Đại Lý là thủ phủ của quân phiến loạn người Hồi. Thủ lĩnh loạn quân là Đỗ Văn Tú xưng quốc hiệu là "Bình Nam quốc" đem quân chống lại nhà Thanh. Chặng đường này nhiều hiểm nguy mà Garnier không ngần ngại, chứng tỏ tính phiêu lưu của ông. Sang năm 1868 ngày 12 tháng 3 Doudart de Lagrée chết nên quyền bính sang tay Garnier. Ông tiếp tục hành trình, dẫn đoàn thám hiểm đến bờ sông Dương Tử (Trường Giang) rồi theo ngả sông này ra biển, về đến Sài Gòn ngày 29 tháng 6 cùng năm.
Garnier về Pháp, cố hoàn tất bản tường trình chuyến đi dài nhưng chiến tranh Pháp-Phổ làm gián đoạn công việc này. Thủ đô Paris bị địch quân Phổ vây hãm. Garnier đảm nhận làm trưởng ban tham mưu của đô đốc Mequet đang phòng thủ Paris. Garnier có ghi lại hồi ức của thời kỳ Paris bị vây hãm. Những ghi chép của Garnier sau đó được in ra thành nhiều kỳ trên báo Le Temps và sau đó đúc kết lại trong cuốn Le Siege de Paris, journal d'un officier de marine (1871). Bài báo lúc in không ghi đích tên Garnier mà chỉ đề là khuyết danh. Cũng năm đó, Garnier cùng David Livingstone nhận được huy chương danh dự của Congrès de Géographie (Hiệp hội Địa lý Pháp).
Năm 1872 Garnier xin nghỉ phép 3 năm nhưng rồi trở lại Nam Kỳ. Nhận thấy tình hình chính trị ở Sài Gòn không còn thích hợp với tính mạo hiểm của mình nên Garnier cùng vợ (cưới năm 1870) bỏ sang Thượng Hải. Garnier ấp ủ giấc mơ thám hiểm thượng nguồn sông Mê Kông ở tận Tây Tạng, đồng thời làm trung gian giải hòa giữa triều đình nhà Thanh và lực lượng Hồi giáo cát cứ ở Vân Nam.
Trở lại quân trường
nhỏ|Cầu Giấy, gần nơi Francis Garnier bị giết ngày 21 tháng 12 năm 1873.
Cuối năm 1873, ông được thống đốc Nam Kỳ là đô đốc Dupré gọi sang Đông Dương giúp giải quyết tranh chấp giữa triều đình Huế và người Pháp tại Bắc Kỳ. Thực tâm của Pháp lúc bấy giờ là tìm cách đặt cuộc bảo hộ ở Đông Dương.
Garnier chỉ huy 200 lính rồi chuyển 4 khẩu pháo ra Bắc Kỳ. Thay vì mở cuộc điều đình thương thuyết với quan người Việt, ông quyết định ra quân và ngày 20 tháng 11 năm 1873 Hà Nội mất về tay người Pháp. Garnier liền ra lệnh mở rộng cuộc đánh chiếm tràn các tỉnh thành chung quanh. Chỉ trong vài ngày mà cả ba tỉnh trung châu đều bị Pháp chiếm đoạt mà không có sự kháng cự nào.
Vài tuần sau trong khi cầm cự với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở gần Cầu Giấy ngoại ô Hà Nội thì Garnier bị giết. (Địa điểm Garnier bị giết nằm gần đường La Thành bên bờ hồ Ngọc Khánh nay thuộc phường Ngọc Khánh quận Ba Đình Hà Nội). Sự việc vỡ lở, người Pháp buộc phải rút khỏi Hà Nội sau khi ký kết hiệp ước với triều đình Huế.
nhỏ|phải|Francis Garnier bị [[quân Cờ Đen đâm chết ở La Thành gần Cầu Giấy]]
Đại tá Thomazi, nhà sử học Đông Dương thuộc Pháp, ghi lại những giờ phút cuối cùng của Garnier như sau:
Năm 1875 mộ phần Garnier được cải táng đưa về Sài Gòn chôn cất cạnh Ernest Doudart de Lagrée.
nhỏ|phải|Biển phố Francis Garnier tại thành phố quê hương ông Saint-Etienne, kèm theo ghi chú: Tại ngôi nhà này Francis Garnier đã ra đời ngày 25-7-1839, đại úy hải quân, người thám hiểm sông Mê Kông và người đầu tiên chinh phục Bắc Kỳ, hy sinh vì tổ quốc tại Hà Nội ngày 21-12-1873|360x360px
Trở về Pháp
Ngày 1 tháng 3 năm 1983, các hài cốt của Francis Garnier và của Ernest Doudart de Lagrée được khai quật và hỏa táng. Các lọ đựng tro đã được bàn giao lại cho tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 3 năm 1983 và được chuyển về Pháp để chôn cất tại Paris.
Đề tài trong văn học Việt Nam
Tương truyền sau khi Garnier bị giết năm 1873, tổng đốc Hà Nội là Trần Đình Túc vâng lệnh triều đình tìm cách hoà hoãn với quân Pháp nên phải tổ chức lễ truy điệu. Nguyễn Khuyến bậc đại khoa được cử viết bài Văn tế Ngạc Nhi.
Bài này đã đi vào văn học Việt Nam với lời văn mỉa mai tỏ ý đối kháng mặc dù tình thế lúc bấy giờ đã bắt người Việt phải nhượng bộ trước sức mạnh quân lực của người Pháp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Francis Garnier trên con tem năm 1943 của Liên bang Đông Dương **Marie Joseph François (Francis) Garnier** (phiên âm: Phrăng-xít Gác-ni-ê) (25 tháng 7 năm 1839 – 21 tháng 12 năm 1873) là một sĩ
**Trận Cầu Giấy** diễn ra ngày 21 tháng 12 năm 1873 là một trận đánh giữa Quân cờ đen và quân đội viễn chinh Đệ tam Cộng hòa Pháp do Đại úy Francis Garnier chỉ
**Trận thành Hà Nội 1873** hay còn gọi là **trận thành Hà Nội lần thứ nhất** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884), diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm 1873.
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
Sau khi thành Hà Nội thất thủ, triều đình Huế phản kháng mạnh mẽ việc đại úy Garnier bất ngờ đánh thành Hà Nội. Các quan lại và binh lính triều đình cũng nhận được
thumb|Hành trình của cuộc thám hiểm Cuộc **thám hiểm sông Mekong 1866-1868**, được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ phát động và giao cho Ernest Doudart de Lagrée lãnh đạo, thực hiện thám
**Adrien-Paul Balny d'Avricourt** (sinh năm 1849 tại Noyon - mất năm 1873 tại Hà Nội) là một trung úy hải quân Pháp tham chiến trong chiến tranh Pháp - Đại Nam. ## Sự nghiệp Năm
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
**Quân Cờ Đen** () là một nhóm đảng cướp có quân số đa số xuất thân từ quân đội người Tráng, di chuyển từ vùng Quảng Tây của Trung Quốc băng qua biên giới vào
thumb|Ernest Doudart de Lagrée, trong _Voyage d'exploration en Indo-Chine_. **Ernest Marc Louis de Gonzague Doudart de Lagrée** (31 tháng 3 năm 1823 - 12 tháng 3 năm 1868) là người Pháp, lãnh đạo cuộc thám
**Công trường Lam Sơn** là khu vực công cộng bao quanh Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, giới hạn bởi đường Đồng Khởi và đường Hai Bà Trưng tại Quận 1, Thành phố Hồ
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
nhỏ|Linh mục Phêrô Trần Lục (Cố Sáu) **Phêrô Trần Lục** (1825-1899), còn được biết với biệt danh **cụ Sáu**, là một linh mục Công giáo người Việt. Ông nổi tiếng là một giáo sĩ nhiệt
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Trương Gia Hội** (張嘉會, 1822-1877) tự **Trọng Hanh**(仲亨), là sĩ phu yêu nước và là quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Trương Gia Hội** là người làng Tân Phước, huyện
**Bưu điện Hà Nội** (hay còn gọi là **Bưu điện Bờ Hồ**;) là một công trình nằm đối diện với hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, gồm ba tòa nhà bưu điện tọa lạc tại các
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ
nhỏ|phải|Trần Đình Túc **Trần Đình Túc** (陳廷肅, 1808-1892), quê làng Hà Trung xã Gio Châu huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị, quan đại thần nhà Nguyễn (thời Tự Đức), từng giữ các chức Tổng đốc
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Nguyễn Mậu Kiến** (chữ Hán: 阮茂建, 1819 - 1879) tên tự là **Lập Nho**, hiệu **Động Am** hay **Kính Đài**, biệt hiệu **Mão Sơn cư sĩ**, quê làng Động Trung (nay là xã Vũ Trung),
**Hiệp ước Giáp Tuất 1874** là bản hiệp định thứ hai giữa nhà Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 giữa đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn -
**Báo Thiên Tự** (chữ Hán: 報天寺), tên đầy đủ là **Sùng Khánh Báo Thiên Tự** (崇慶報天寺), từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam
Mộ Hoàng Kế Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình **Hoàng Kế Viêm** (1820 - 1909) là phò mã và là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
thumb|317x317px|Jean Dupuis ngồi giữa với trang phục Mãn Thanh. **Jean Dupuis** (7 tháng 12 năm 1828, Saint-Just-la-Pendue, Pháp – 28 tháng 11 năm 1912, Monaco) là một nhà thám hiểm và thương nhân người Pháp.
**Henri Louis Ferdinand Bain de la Coquerie** (1845 - 1881) là một đại úy hải quân Pháp, từng tham gia chiến tranh Pháp - Đại Nam Bain de la Coquerie là con trai duy nhất
Dòng sông Mê kông Sông **Mê Kông** là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,
Ngày **21 tháng 12** là ngày thứ 355 (356 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 10 ngày trong năm.Trong tiết khí, ngày này hoặc ngày 22 tháng 12 là ngày đông chí. ## Sự
Phố Đinh Tiên Hoàng bên [[hồ Hoàn Kiếm]] **Phố Đinh Tiên Hoàng** (Hà Nội) là một tuyến phố du lịch nằm ở phần bờ đông và bắc của hồ Hoàn Kiếm, quận Hoàn Kiếm. Phố
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Nguyễn Sơn Hà** (1894 tại Hà Nội - 1980 tại Hải Phòng) là một trong những doanh nhân, nhà kỹ nghệ hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông được biết đến như là
**Hải quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Republic of Vietnam Navy_, **RVN**) là lực lượng Hải quân trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoạt động trên cả vùng sông nước và lãnh
thumb|Phố Hàng Chiếu **Phố Hàng Chiếu** là con phố nhỏ trong khu phố cổ Hà Nội, thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội . ## Vị trí - Địa điểm Phố dài
**Cầu Giấy** là cây cầu bắc qua sông Tô Lịch tại nơi nay là đường Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tên cầu đã được dùng để đặt cho quận Cầu Giấy hiện nay.
**Cộng hòa tự trị Nam Kỳ** () hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 -
nhỏ|Cửa ô Quan Chưởng **Ô Quan Chưởng** (hay còn gọi là **ô Đông Hà**, **ô Thanh Hà**, **ô Cửa Đông**, tên chữ là **Đông Hà môn** (東河門, tức _cửa phường Đông Hà_) là một cửa
nhỏ|Tổng đốc Phương **Tổng Đốc Phương**, tên thật là **Đỗ Hữu Phương** (杜有芳, 1841–1914), là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp. Trong thời kỳ đầu quân Pháp đến chiếm đóng Việt Nam,
**Saint-Étienne** là tỉnh lỵ của tỉnh Loire, thuộc vùng hành chính Auvergne-Rhône-Alpes của nước Pháp, có dân số là 180.210 người (thời điểm 1999). Đây là một thành phố ở miền đông nước trung bộ
**Công viên Lê Văn Tám** là một công viên tại phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Công viên nằm giữa bốn tuyến đường là Hai Bà Trưng, Điện Biên
**Phan Liêm** (潘簾, 29 tháng 8 năm 1833 - 1896), tên là **Phan Thanh Tòng** (hay **Tùng**), tên chữ là **Liêm**, tự **Thúc Thanh**, nên còn được gọi là Phan Thanh Liêm. Và vì người
**Nam Định** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Đây là một trong những thành phố được Pháp lập ra đầu tiên ở Liên bang Đông Dương. Nằm ở phía
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**1873** (số La Mã: **MDCCCLXXIII**) là một năm thường bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory. ## Sự kiện * 20 tháng 11: Thực dân Pháp xâm chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất
**Hoàng Văn Hòe** (1848 - ?) tự **Vương Trực**, hiệu **Cổ Lâm**, biệt hiệu **Hạc Nhân** là chiến sĩ trong phong trào Cần Vương, và là nhà thơ Việt Nam. Ông được đánh giá là
Quân Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873 **Nguyễn Văn Lâm** (阮林; 1844 - 1873) còn gọi là **Nguyễn Lâm**, tự _Mặc Hiên_, là con thứ hai của đại thần Nguyễn Tri Phương và là