✨Chuột túi Wallaby

Chuột túi Wallaby

nhỏ|Một con chuột túi Wallaby, [[Notamacropus rufogriseus]] [[Macropus agilis|Notamacropus agilis]] Chuột túi wallaby là loài chuột túi cỡ nhỏ có ngoại hình giống như Kangaroo nhưng có kích thước nhỏ hơn. Đây loài chuột túi giống như Kangaroo nhưng không được gọi là Kangaroo mà tách riêng thành loài chuột và có kích cỡ nhỏ hơn một con Kangaroo thông thường. Wallaby có kích thước khá nhỏ, con lớn nhất cao khoảng 1.8 m tính từ đầu đến đuôi với cân nặng khoảng 30 kg. Kangaroo và wallaby có kích thước và trọng lượng rất khác nhau, dao động từ nửa kilôgram đến 90 kilôgram. Wallaby là loài bản địa của nước Úc, có mặt ở khắp nơi, đặc biệt là ở những vùng hẻo lánh, vùng núi đá và vùng có địa hình gồ ghề.

Các loài

Wallaby không phải là một nhóm di truyền riêng biệt. Tuy nhiên, chúng được chia thành nhiều loại rộng. Những con chuột túi thuộc chi _Notamacropus _như chuột túi nhanh nhẹn (Notamacropus agilis) và những Wallaby cổ đỏ (Notamacropus rufogriseus), có quan hệ họ hàng gần nhất với kangaroo và wallaroo, ngoài kích thước của chúng, chúng còn trông rất giống nhau. Đây là những loài thường xuyên được nhìn thấy nhất, đặc biệt là ở các bang phía nam.

Có 8 loài:

  • Notamacropus agilis, chuột túi nhanh nhẹn, là wallaby lớn nhất và sống theo nhóm.
  • Notamacropus dorsalis, chuột túi vân đen, có một sọc ở lưng màu đen.
  • Notamacropus eugenii là loài wallaby nhỏ nhất, sinh sống ở tây nam và nam Australia.
  • Notamacropus greyi, từng sống ở đông nam Australia đã tuyệt chủng.
  • Notamacropus irma sinh sống ở tây nam Australia.
  • Notamacropus parma được cho là đã tuyệt chủng trước khi một số ít được tìm thấy ở miền đông Australia.
  • Notamacropus parryi có thể được nhận biết bởi các sọc trắng trên khuôn mặt.
  • Notamacropus rufogriseus có vùng vai màu đỏ nổi bật .

Tập tính

Chúng thực hiện việc giao tiếp với đồng loại bằng cách ra dấu bằng thị giác và khứu giác là phương thức giao tiếp phổ biến của loài Wallaby. Ngoài ra còn có ngôn ngữ hình thể, khi một con Wallaby cảm nhận thấy nguy hiểm, chúng sẽ đứng yên rồi làm động tác nhịp chân sau giống như đang đánh trống để cảnh báo những con khác trong bầy về mối đe dọa tiềm tàng. Điều đặc biệt là Wallaby không sinh ra loại khí methane trong ống tiêu hóa của chúng do sự có mặt của một nhóm vi khuẩn riêng biệt có mặt ở loài này (một loài vi khuẩn ruột được gọi là Wallaby nhóm 1) Khi nuôi trồng chúng trong môi trường dinh dưỡng thích hợp, vi khuẩn này sinh ra chất succinate thay vì methane là sản phẩm cuối cùng.

Sinh trưởng

[[Macropus agilis|Notamacropus agilis]] Ở giai đoạn phôi thai, Wallaby con còn đỏ hỏn không có lông lại còn bị mù và chỉ bé bằng cỡ hạt đậu. Sau chừng 4 đến 5 tuần thai nghén, chúng được chuyển vào túi của con mẹ và bắt đầu được cho bú sữa mẹ trong 6 đến 8 tháng. Chúng phải ở trong túi cho đến khi phát triển cứng cáp, lông bắt đầu mọc, nhìn thấy được và có khả năng nhảy thì mới có thể xuất hiện. Thời gian đầu, các Wallaby con dành phần lớn thời gian ở bên ngoài để ăn cỏ và tích lũy các kĩ năng sống cần thiết, chúng chỉ chui vào trong túi để ngủ hoặc khi cảm thấy bị đe dọa. Ở một số loài, con con vẫn ở nguyên trong túi chừng một năm nữa hoặc cho đến khi con khác được sinh ra đời. Tuy nhiên, hầu hết chúng bắt đầu phải sống tự lập sau khi sinh 9 tháng.

Một con Wallaby cái có khả năng tiết ra hai loại sữa khác nhau cùng một lúc. Có loại sữa dành riêng cho những con non đang thời kì phát triển còn chúng sẽ tiết ra loại sữa khác thích hợp với những con Wallaby đã bắt đầu rời khỏi túi. Các con Wallaby con sẽ bú các núm vú khác nhau để chọn được đúng loại sữa dành cho mình. Mỗi loại sữa chứa các thành phần khác nhau về chất béo, carbohydrate và protein. Sữa cho các con lớn hơn sẽ chứa hàm lượng chất béo cao hơn. Do sự phức tạp này nên hiếm khi Wallaby cái có thể xoay xở với ba đứa con cùng một lúc vì cơ thể sẽ phải điều tiết chất rất nhiều để đảm bảo dinh dưỡng cho từng thời kì phát triển của một chú Wallaby con. Người ta chưa phát hiện được ở bất cứ loài động vật nào cùng một lúc tiết ra hai loại sữa như loài Wallaby.

Thiên địch

nhỏ|phải|Một con [[Quỷ Tasmania đang ăn thịt một con Wallaby]] Chúng có một số lượng lớn những loài thiên địch như cáo Âu châu, chó rừng, chó hoang, đại bàng đuôi nêm, quỷ Tasmania là loài thú lớn có túi chuyên ăn thịt, chó, mèo và con người. Những con non rất dễ gặp nguy hiểm với loài đại bàng đuôi nêm và rắn hoa. Còn với những con đã trưởng thành, ngoài nguy hiểm từ loài chó rừng và quỷ Tasmanian, mối đe dọa lớn nhất với chúng là con người và loài cáo Âu châu. Nhiều con chuột bị cán chết trên đường. Người ta ước tính loài Wallaby và Kangaroo chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các loài động vật hoang dã bị chết trên đường tại Úc. Do điều kiện thuận lợi nên tại đây, số lượng của loài này đang tăng đột biến, gây ảnh hưởng xấu đến việc chăn thả gia súc và trồng trọt. Cách đối phó với tình trạng này mà con người lựa chọn đó là chọn lọc tự nhiên. Trong vòng một năm, đã có hơn một triệu loài Wallaby và Pademelon bị bắn tại Tasmania trong một chiến dịch bảo vệ nông trại và rừng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Một con chuột túi Wallaby, _[[Notamacropus rufogriseus_]] _[[Macropus agilis|Notamacropus agilis_]] **Chuột túi wallaby** là loài chuột túi cỡ nhỏ có ngoại hình giống như Kangaroo nhưng có kích thước nhỏ hơn. Đây loài chuột túi
**Thú có túi** là bất kỳ thành viên nào của phân thứ lớp thú **Marsupialia**. Tất cả các loài thú có túi còn tồn tại đều là loài đặc hữu của Australasia và châu Mỹ.
**_Notamacropus_** là một chi thú có túi nhỏ trong Họ Chân to, thường được gọi là chuột túi wallaby (trong số các loài khác). Vào năm 2019, đánh giá lại phân loại Họ Chân to
**Họ Chân to** (**Macropodidae**) là một họ thú có túi thuộc Bộ Hai răng cửa (Diprotodontia). Các loài trong họ này là kangaroo, chuột túi Wallaby, chuột túi cây, wallaroo, pademelon, quokka, và một số
**Hệ động vật ở Úc** là các quần thể động vật bản địa hay du nhập tại lục địa Úc hợp thành hệ động vật tại đây. Úc là nơi có hệ động vật rất
**_Notamacropus rufogriseus_** (trước đây _Macropus rufogriseus_) là một loài động vật có vú và chuột túi wallaby trong họ Macropodidae, bộ Hai răng cửa. Loài này được Desmarest mô tả năm 1817. Đây là loài
thumb|Cảnh quan hoang dã vào [[Thế Canh Tân muộn ở Bắc Tây Ban Nha, bởi Mauricio Antón (trái sang phải: _Equus ferus_, _Mammuthus primigenius_, _Rangifer tarandus, Panthera leo spelaea, Coelodonta antiquitatis_)]] Kỷ Đệ tứ (từ
**Đảo K'gari** trước đây là đảo **Fraser** và thời gian ngắn là **Great Sandy** và **Thoorgine** là một hòn đảo nằm ngoài khơi bờ biển phía đông, dọc theo bờ biển vùng Wide Bay–Burnett thuộc
**Họ Microbiotheriidae** là một họ thú có túi thuộc siêu bộ Australidelphia được đại diện bởi chỉ một loài duy nhất là monito del monte, và một số loài đã tuyệt chủng được biết đến
**Vườn quốc gia Lorentz** là một vườn quốc gia nằm tại phía tây của đảo New Guinea thuộc tỉnh Papua, Indonesia. Với diện tích 25.056 km² (9.674 mi2), đây là vườn quốc gia lớn nhất Đông Nam
**Phalangeriformes** là một phân bộ thú có túi bao gồm khoảng 70 loài có kích thước nhỏ đến trung bình, sống trên cây đặc hữu ở Úc, New Guinea và Sulawesi (và được du nhập
**Quỷ hầu** (_Devil Monkey_) là một sinh vật kỳ bí dạng khỉ được báo cáo đã xuất hiện tại nước Mỹ lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 6 năm 1997 tại thị trấn Dunkinsville
**_Dendrolagus goodfellowi_** là một loài thú có túi thuộc họ Macropodidae, một họ gồm kangaroo, wallaby và họ hàng, và chi _Dendrolagus_, với mười một loài khác. Theo phân loại của IUCN, loài này được
**_Dendrolagus bennettianus_** là một loài động vật có vú trong họ Macropodidae, bộ Hai răng cửa. Loài này được De Vis mô tả năm 1886. Con đực có thể cân nặng từ 11,5 kg lên đến
nhỏ|phải|Một con sói đồng cỏ đang ăn xác thối của một con hươu **Động vật ăn xác thối** hay **động vật ăn xác chết** là những loại động vật ăn thịt và hành vi ăn
nhỏ|phải|Một con ngựa hoang Úc **Ngựa hoang Úc** hay còn gọi là **Brumby** là những con ngựa hoang tự do ở Australia. Mặc dù được tìm thấy ở nhiều nơi trong nước, các con ngựa
**Đảo Whitsunday** là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Whitsunday nằm ngoài khơi bờ biển Trung Queensland, Úc. Tại đây có bãi biển Whitehaven được CNN.com đánh giá là bãi biển sinh thái thân
thế=|nhỏ|250x250px|Một con chó Dingo hốc hác cho thấy bàn chân màu trắng thông thường của nó. **Chó Dingo** (_Canis familiaris, Canis dingo,_ _Canis familiaris dingo_ hay _Canis lupus dingo_) là một loài chó hoang trong
**Đại bàng đuôi nhọn** (danh pháp khoa học: _Aquila audax_), là một loài chim trong họ Accipitridae. Nó có đôi cánh dài, khá rộng và một cái đuôi nhọn. Sải cánh của nó lên đến
phải|wallabychân xám **Vườn quốc gia Thung lũng Avon** là một vườn quốc gia ở tiểu bang Tây Úc, (Australia), nằm tại 47 kilometres (29 mi) đông bắc của thành phố Perth, thủ phủ của tiểu bang. Vườn
nhỏ|Hình 1: Phát tán cá thể thông qua di cư hoặc nhập cư là hiện tượng dòng gen thường gặp. **Dòng gen** là sự di chuyển cá thể hoặc giao tử từ quần thể này
**Vườn quốc gia sông Abercrombie** là một vườn quốc gia ở bang New South Wales, Úc, cách thành phố Sydney 138 km về phía tây, gần dãy núi Blue. ## Động vật Trong vườn quốc gia
**Vườn quốc gia Hẻm núi Cania** là một vườn quốc gia ở bang Queensland, (Úc), cách thành phố Brisbane 373 km về phía tây bắc. Thành phố gần nhất là Monto. Cảnh nổi bật trong vườn
**New Guinea** (tên gọi lịch sử: **_Papua_**) nằm ở Nam Bán cầu là đảo lớn thứ hai thế giới, sau Greenland, với diện tích 786.000 km². Đảo nằm ở tây nam Thái Bình Dương, ở phía