✨Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868

Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868

Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1868 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 21, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1868. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết, ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Ulysses S. Grant đã đánh bại Horatio Seymour của Đảng Dân chủ. Đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc và chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên mà người Mỹ gốc Phi có thể bỏ phiếu ở các bang miền Nam đang trong thời gian tái thiết, theo Đạo luật Tái thiết thứ nhất.

Tổng thống đương nhiệm Andrew Johnson kế nhiệm Abraham Lincoln vào năm 1865 sau khi Lincoln bị ám sát. Johnson, một đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến đến từ Tennessee, từng là đồng tranh cử với Lincoln vào năm 1864 với đề cử từ Đảng Liên minh Quốc gia, vốn ra đời để thu hút các đảng viên Cộng hòa và đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến. Khi lên nắm quyền, Johnson đã xung đột với Quốc hội kiểm soát bởi Đảng Cộng hòa về các chính sách Tái thiết và do đó bị luận tội và suýt bị phế truất khi cách biệt phiếu bãi nhiệm và tha bổng ông chỉ là 1 phiếu. Johnson đã nhận được một số sự ủng hộ để tái tranh cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1868, nhưng sau một số cuộc bỏ phiếu, đại hội đã đề cử Seymour, người trước đây từng là Thống đốc New York. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1868 đã nhất trí đề cử Tướng Grant, người giữ chức Tướng tư lệnh tối cao của Liên bang vào cuối Nội chiến. Đảng Dân chủ chỉ trích các chính sách Tái thiết của Đảng Cộng hòa và "đã vận động tranh cử bằng cách chống người da đen và ủng hộ người da trắng," trong khi Đảng Cộng hòa vận động dựa trên sự nổi tiếng của Grant và chiến thắng của Liên bang trong Nội chiến.

Grant đã giành chiến thắng cách biệt trong phiếu đại cử tri, nhưng cách biệt trong phiếu phổ thông lại hẹp nhiều. Ngoài sự nổi tiếng của mình ở miền Bắc, Grant còn hưởng lợi từ các phiếu bầu của những nô lệ mới được trao tự do ở miền Nam, trong khi nhiều người da trắng ở miền Nam bị tước quyền bỏ phiếu tạm thời. Vì 3 trong số các bang cũ của Liên minh miền Nam (Texas, Mississippi và Virginia) vẫn chưa tái gia nhập Liên bang, các đại cử tri của họ không thể bỏ phiếu trong cuộc bầu cử này. Đây là lần cuối cùng Missouri ủng hộ một ứng cử viên Đảng Cộng hòa cho đến năm 1904. Đây cũng là lần cuối cùng cho đến năm 1912, Đảng Dân chủ giành được nhiều phiếu đại cử tri từ miền Bắc (46) hơn miền Nam (34), mặc dù điều này một phần là do nhiều vấn đề liên quan đến Tái thiết, và vào năm 1912, Đảng Dân chủ nổi tiếng trên môi trường chính trị toàn quốc hơn cũng như dân số miền Bắc cao hơn. Đây cũng là lần cuối cùng đảng Cộng hòa giành được nhiều phiếu phổ thông ở miền Nam hơn ở miền Bắc cho đến năm 1964, một lần nữa do các bang tái thiết như Nam Carolina hay Tennessee.

Bối cảnh

Sau Nội chiến, quyền công dân của những cựu nô lệ là một vấn đề được tranh luận sôi nổi trong Liên bang. Grant ủng hộ các kế hoạch Tái thiết của đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội, vốn theo tinh thần của Tu chính án thứ 14, cung cấp đầy đủ quyền công dân cho những cựu nô lệ, trong đó bao gồm cả quyền bầu cử. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ đã hạ thấp các quyền này và bôi nhọ nó là "quyền thượng đẳng của người da đen" và yêu cầu khôi phục quyền của các bang, trong đó có quyền của các bang miền Nam tự quyết định xem có cho phép cựu nô lệ bỏ phiếu hay không. Các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây đã quyết tâm hạn chế quyền công dân của những cựu nô lệ nhằm ủng hộ ứng cử viên Đảng Dân chủ.

Đề cử

Đề cử của Đảng Cộng hòa

nhỏ|Áp phích chiến dịch tranh cử của liên danh Grant/Colfax

Năm 1868, Đảng Cộng hòa đã cảm thấy đủ nổi tiếng để không dùng tên Đảng Liên minh Quốc gia nữa, họ muốn đề cử một anh hùng nổi tiếng cho vị trí tổng thống. Tướng Ulysses S. Grant vốn tự tuyên bố bản thân là đảng viên Cộng hòa và do đó được nhất trí đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên với tư cách là ứng cử viên Tổng thống của đảng tại đại hội đảng Cộng hòa ở Chicago, được tổ chức từ ngày 20 đến 21 tháng 5 năm 1868. Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, một đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến từ Indiana, đã được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ sáu, đánh bại Thượng nghị sĩ Benjamin Wade từ Ohio.

Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa ủng hộ quyền đi bầu cử của người da đen như một lời hứa theo tinh thần của Tu chính án thứ 14 rằng những cựu nô lệ có đầy đủ quyền công dân. Họ phản đối việc sử dụng đồng bạc xanh để mua lại trái phiếu Hoa Kỳ, khuyến khích nhập cư, tán thành các quyền đầy đủ cho công dân nhập tịch và ủng hộ Tái thiết khác với các chính sách khoan dung hơn của Tổng thống Andrew Johnson.

Đề cử của Đảng Dân chủ

nhỏ|Áp phích chiến dịch tranh cử của liên danh Seymour/Blair

nhỏ|228x228px|[[Andrew Johnson, tổng thống đương nhiệm vào năm 1868, người sẽ hết nhiệm kỳ vào ngày 4 tháng 3 năm 1869]]

Tập tin:Hon. Horatio Seymour, N.Y - NARA - 528568 (cropped).jpg|Cựu Thống đốc **Horatio Seymour** từ New York Tập tin:GeorgeHPendleton.png|Cựu Dân biểu **George H. Pendleton** từ Ohio Tập tin:Thomas Andrews Hendricks (cropped 3x4).jpg|Thượng nghị sĩ **Thomas A. Hendricks** từ Indiana Tập tin:WinfieldSHancock.png|Tướng **Winfield Scott Hancock** từ Pennsylvania Tập tin:Aj17.gif|Tổng thống đương nhiệm **Andrew Johnson** Tập tin:Hon. Sanford E. Church.jpg|Cựu Phó Thống đốc **Sanford E. Church** từ New York Tập tin:AsaPacker small.png|Cựu Dân biểu **Asa Packer** từ Pennsylvania Tập tin:JamesEdwardEnglish.png|Thống đốc **James E. English** từ Connecticut Tập tin:Joel Parker.jpg|Cựu Thống đốc **Joel Parker** từ New Jersey Tập tin:JamesRDoolittle.png|Thượng nghị sĩ **James Rood Doolittle** từ Wisconsin Tập tin:StephenField.png|Thẩm phán Đồng nhiệm **Stephen J. Field** từ California Tập tin:Samuel Portland Chase.jpg|Chánh án **Salmon P. Chase** từ Ohio Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ được tổ chức tại thành phố New York từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 7 năm 1868. Người dẫn đầu trong những cuộc bỏ phiếu đầu là George H. Pendleton (ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng Dân chủ năm 1864), người đã dẫn đầu trong 15 lần bỏ phiếu đầu tiên, theo sau là Tổng thống Johnson, Winfield Scott Hancock, Sanford Church, Asa Packer, Joel Parker, James E. English, James Rood Doolittle, và Thomas A. Hendricks. Johnson vốn không được ưa chuộng, trước đó đã may mắn giữ được vị trí của mình sau cuộc luận tội, chỉ giành được 65 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, ít hơn một phần ba tổng số phiếu bầu cần thiết để được đề cử, và do đó đã thua cuộc bầu cử tổng thống ngay từ vòng sơ bộ.

Trong khi đó, chủ tịch Đại hội Horatio Seymour, cựu thống đốc New York, nhận được 9 phiếu trong lần bỏ phiếu thứ tư từ North Carolina. Động thái bất ngờ này đã tạo nên "sự cổ vũ lớn và nhiệt tình" cho ông, nhưng Seymour ban đầu từ chối.

Đến lần bỏ phiếu thứ 7, Pendleton và Hendricks đã nổi lên như hai ứng cử viên dẫn đầu, với Hancock là ứng cử viên duy nhất khác nhận được nhiều sự ủng hộ. Sau nhiều lần bỏ phiếu, John T. Hoffman, Francis P. Blair và Stephen Johnson Field đã lần lượt được xướng tên, nhưng không ứng cử viên nào trong số này nhận được sự ủng hộ đáng kể.

Trong suốt 21 lần bỏ phiếu, các ứng cử viên đã xâu xé lẫn nhau qua nhiều vấn đề: người miền Đông thì cạnh tranh với miền Tây, những người bảo thủ thì cạnh tranh với những người cấp tiến. Sự ủng hộ dành cho Pendleton đã chấm dứt sau lần bỏ phiếu thứ 15, nhưng số phiếu ủng hộ nghiêng về Hancock chứ không phải Hendricks, khiến đại hội càng rơi vào bế tắc. Họ đã xác định rằng bản thân họ chắc chắn sẽ không được đề cử tổng thống; vì họ cần đạt 2/3 số phiếu của đại hội, do đó, một ứng cử viên thỏa hiệp cần được tìm ra thay vì đề cử 2 người trên. Seymour vẫn hy vọng người đó sẽ là Chánh án Salmon P. Chase, nhưng trong lần bỏ phiếu thứ 22, trưởng phái đoàn Ohio tuyên bố ủng hộ Seymour làm ứng cử viên của đảng. Trong khoảnh khắc đó, Seymour phải chờ cho những tiếng reo hò lắng xuống trước khi ông có thể từ chới đề nghị này. Dẫu đã từ chối, ông vẫn được các đại biểu ủng hộ cho vị trí ứng cử viên. Lặp lại lời từ chối, Seymour định rời sân khấu để nghỉ ngơi. Ông vừa rời khỏi hội trường thì trưởng phái đoàn Ohio hét lên rằng phái đoàn của ông sẽ không chấp nhận lời từ chối của Seymour; trưởng phái đoàn của Utah cũng đứng lên và nói rằng Seymour là người mà họ cần tìm. Trong khi Seymour đang vắng mặt ở phòng họp, đại hội đã nhất trí đề cử ông làm tổng thống.

Quá mệt mỏi với vị trí Tổng thống, các đại biểu đã nhất trí đề cử Tướng Francis Preston Blair, Jr. làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John A. McClernand, Augustus C. Dodge và Thomas Ewing, Jr., rút lui. Việc đề cử Blair là cách để cân bằng vùng miền trong liên danh tranh cử của đảng.

Tổng tuyển cử

Chiến dịch

trái|nhỏ|206x206px|Áp phích chiến dịch của Đảng Cộng hòa. Chiến dịch năm 1868 của cả Horatio Seymour và Ulysses S. Grant đều được tiến hành rất sôi nổi, phần lớn tranh cãi về vấn đề Tái thiết nên được tiến hành như thế nào.

Chiến dịch của Seymour ghi dấu ấn bằng những lời kêu gọi phân biệt chủng tộc rõ ràng với nhiều lần cố gắng gán cho Tướng Grant là ứng cử viên của "người da đen" và Seymour là ứng cử viên của "người da trắng". Quân lệnh bài Do Thái do Grant ban hành trong Nội chiến là một vấn đề của toàn chiến dịch. Ông đã buộc phải lên tiếng xin lỗi trong một lá thư về quân lệnh gây tranh cãi của mình, giải thích rằng bản thân ông không ủng hộ quân lệnh đó dù đích thân ông là người ban hành. Trên thực tế, trong những ngày còn tại ngũ, ông đã có lần ghé thăm một cửa hàng địa phương do hai anh em nhà Seligman, những thương gia người Do Thái, làm chủ. Họ sau này đã trở thành những người bạn trong suốt cuộc đời Grant. Họ dần trở nên giàu có và là những người đã quyên góp rất nhiều cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Grant. phải|nhỏ|300x300px|Một thẻ chiến dịch của Grant/Colfax Grant không tham gia tích cực vào chiến dịch của mình và không hứa hẹn điều gì. Nhưng đảng Cộng hòa đã trích dẫn câu "Hãy để chúng ta có hòa bình" từ lá thư chấp nhận đề cử của ông làm châm ngôn và lời hứa với cử tri suốt cuộc bầu cử. Sau 4 năm Nội chiến đẫm máu, 3 năm tranh cãi về Tái thiết và nỗ lực luận tội một Tổng thống, dân chúng đã khao khát từ lâu một quốc gia hòa bình mà Grant và đảng Cộng hòa cam kết sẽ gây dựng khi lên nắm quyền. trái|nhỏ|215x215px|Ảnh chiến dịch của Seymour/Blair Seymour không phản hồi bất kỳ cáo buộc giả mạo nào chống lại ông, nhưng đã có một số bài phát biểu quan trọng. Một số tờ báo đã hiểu nhầm những việc làm của ông. Với tư cách là thống đốc, Seymour đã từng gửi quân viện trợ Liên bang tới Trận Gettysburg, nhưng một số tờ báo đã cố gắng miêu tả ông là một người không trung thành với Liên bang. Tờ New York Tribune đăng những bức ảnh châm biếm mô tả Seymour đứng trên bậc thềm của Tòa Thị chính và gọi đám đông những kẻ nổi dậy ở New York là "các bạn của tôi". Hartford Post miêu tả ông là "gần giống với một xác chết" giống như cựu Tổng thống James Buchanan vừa qua đời. Ngoài ra, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc rằng gia đình Seymour bị tâm thần, lấy bằng chứng với việc cha ông tự sát.

Blair đã bắt đầu diễn thuyết trên toàn quốc, ở đó ông sử dụng rất nhiều thuật ngữ phân biệt chủng tộc, thậm chí hạ nhục người da đen bằng nhiều lời lẽ ghê tởm. Vì đó, đảng Cộng hòa kêu gọi người Mỹ không bỏ phiếu cho Seymour, vì Seymour vốn không muốn làm Tổng thống nên nhiều khả năng khi đắc cử, ông sẽ từ chức và Blair sẽ kế vị ông.

Blair nổi tiếng là người thẳng thắn và các bài phát biểu trong chiến dịch tranh cử của ông vào năm 1868 đã tấn công nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa Cấp tiến. Samuel J. Tilden, một thành viên của Ủy ban toàn quốc Đảng Dân chủ, đã yêu cầu Blair hạn chế vận động tranh cử ở Missouri và Illinois vì sợ rằng ông ấy sẽ phá hỏng những nỗ lực của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử.

Seymour, người không đóng vai trò tích cực trong chiến dịch cho đến thời điểm đó, đã tham gia vận động, tìm cách lái chiến dịch khỏi các bài phát biểu của Blair. Seymour nhấn mạnh rằng những thay đổi ở miền Nam nên được thực hiện ở cấp tiểu bang, không có sự can thiệp của Liên bang. Đảng Dân chủ đã vận động để tái kết nạp ngay lập tức tất cả các bang từng ly khai, cấp cho họ quyền bầu cử ở các bang và ân xá những hành vi phạm pháp trong thời Nội chiến. Ông cũng nhấn mạnh rằng Tổng thống và Tòa án Tối cao nên được tôn trọng hơn là bị tấn công, như ông tuyên bố Đảng Cộng hòa đã làm trong nhiệm kỳ của Johnson.

Kết quả

Horatio Seymour giành được 2.708.744 phiếu bầu trong khi Grant nhận được 3.013.650 phiếu.

Sự sít sao trong số phiếu phổ thông đã gây ngạc nhiên cho giới tinh hoa chính trị vào thời điểm đó. Dân biểu Đảng Cộng hòa James G. Blaine cho rằng đa số mong manh mà Grant giành được là "một sự thật rất đáng kinh ngạc." Ngay cả Blaine cũng thể giải thích được vì sao Đảng Dân chủ lại giành được nhiều phiếu bầu như vậy. Dù cách biệt số phiếu phổ thông rất hẹp, Seymour đã để mất toàn bộ số phiếu đại cử tri tại một số bang miền Bắc như Indiana, Connecticut và Pennsylvania. Nhiều người nghi ngờ những người da trắng bị tước quyền bầu cử ở miền Nam đã lén lút đi bầu cho Seymour dù không có bằng chứng cụ thể.

Đảng Dân chủ để thua ở hầu hết bang miền Nam, nơi những người Mỹ gốc Phi mới được trả tự do đã bỏ phiếu ủng hộ Grant với số lượng rất lớn. Đảng Cộng hòa thắng mọi bang miền Nam ngoại trừ Georgia và Louisiana, nơi sự tàn bạo của Ku Klux Klan cũng như cái gọi là "Hiệp sĩ Da trắng Camelia" và gian lận bầu cử đã mang lại chiến thắng cho đảng Dân chủ.

Đảng Dân chủ thắng áp đảo ở các bang vùng biên như Kentucky, Maryland và Delaware, với Kentucky thì người dân căm ghét những người theo chủ nghĩa Tái thiết Cấp tiến Cực đoan, điều này đã dẫn đến chính quyền đầu tiên sau Nội chiến của bang gần như hoàn toàn bao gồm các thành viên Liên minh cũ. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Dân chủ trước hoặc sau đó đạt được tỷ lệ ủng hộ cao như vậy ở Kentucky hay Maryland, nơi người dân căm ghét quyền bầu cử của người da đen. Đối với Delaware, đảng Dân chủ chỉ có liên danh Johnson/Humphrey năm 1964 và liên danh Obama/Biden năm 2008 có tỷ lệ ủng hộ cao hơn.

Hai bang vùng biên, Missouri và Tây Virginia, đều mang về chiến thắng cho Đảng Cộng hòa. Seymour đã thắng ở bang New York quê hương của mình một cách sít sao, nhưng Blair lại bị tẩy chay tuyệt đối tại Missouri quê hương ông. Đảng viên Đảng Dân chủ Missouri vui mừng chế giễu ông rằng: "Tướng Blair bị tẩy chay tại phường của ông ấy, thành phố của ông ấy, quận của ông ấy và bang của ông ấy." Ở Tây Virginia, những người theo Liên minh miền Nam trước đây tạm thời bị cấm bỏ phiếu hoặc giữ các chức vụ công. Kết quả là khoảng 15.000 đến 25.000 cư dân da trắng đã bị tước quyền.

Trong số 1.708 quận tái gia nhập, Grant giành được 991 (58,02%) và Seymour 713 (41,74%). Bốn quận (0,23%) chia đều cho Grant và Seymour. Do đó, Đảng Dân chủ, ngay cả khi phải gánh chịu mọi tai tiếng của chiến tranh, chỉ chiếm được ít hơn 278 quận so với Đảng Cộng hòa. Điều đó đã giúp củng cố sự nổi tiếng của đảng ở cấp cơ sở trong các cuộc bầu cử địa phương năm 1867.

Cuộc bầu cử năm 1868 là cuộc bầu cử duy nhất kể từ Nội chiến mà hai ứng cử viên của đảng lớn cùng nhau giành được hơn 99,9% số phiếu bầu trên cả nước. Trong tổng số hơn 5,7 triệu phiếu bầu, chỉ có 46 phiếu bầu cho người "khác" mà không phải Grant hay Seymour.

Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà Đảng Cộng hòa thắng ở Tennessee cho đến năm 1920, cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Dân chủ thắng ở Oregon cho đến năm 1912, và cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Cộng hòa thắng Missouri cho đến năm 1904.

Việc Grant thua Seymour ở New York với cách biệt 10.000 phiếu bầu là nguồn gốc khiến các đảng viên Cộng hòa xấu hổ và tức giận. Chiến thắng của Seymour ở New York đã dẫn đến một cuộc điều tra liên bang. Vào ngày 4 tháng 11, Horace Greeley phát biểu tại Union League Club và sau đó ULC đã nhanh chóng kiến nghị Quốc hội xem xét đièu tra cuộc bỏ phiếu của bang. Bản kiến nghị đã được trình lên Hạ viện vào ngày 14 tháng 12 và được chấp thuận với tỷ lệ số phiếu 134-35 (52 phiếu trắng). Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã chỉ định một ủy ban gồm 7 người: 5 thành viên Đảng Cộng hòa và 2 thành viên Đảng Dân chủ. Ủy ban được thành lập được cho là vì Đảng Cộng hòa vẫn cho rằng mình không thể để mất New York mà không có bất kỳ sự phản đối nào. Cuộc điều tra được báo cáo lên Hạ viện vào ngày 23 tháng 2 năm 1869. Ủy ban quyết định không thực hiện bất kỳ điều tra nào và Seymour đã giữ được 33 phiếu đại cử tri từ New York.

Theo người viết tiểu sử của Seymour, Stewart Mitchell, Đảng Cộng hòa đã tuyên bố có công trong việc cứu Liên bang và quyết tâm tiếp tục cai trị nó. Tỷ lệ đa số phổ thông của Grant phần lớn đến từ tỷ lệ ủng hộ cao trong số nửa triệu người đàn ông hoặc người da màu mới được trao quyền. Chiến lược này tương phản mạnh mẽ với những năm sau đó, khi các đảng viên Cộng hòa khổng thể ngăn chặn việc tước quyền bầu cử của người da đen ở các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây, vì họ có nhiều phiếu bầu mới và an toàn hơn ở các bang mới ở miền Tây Hoa Kỳ.liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:United_States_Electoral_College_1868.svg

(a)Mississippi, Texas và Virginia không tham gia cuộc bầu cử năm 1868 do chưa tái gia nhập Liên bang. Tại Florida, cơ quan lập pháp của bang đã bỏ phiếu đại cử tri cho Grant với tỷ lệ phiếu 40-9.

Thư viện kết quả

Tập_tin:1868USPresidentialelectionbyCounty.svg|Kết quả theo quận

Kết quả theo bản đồ

Tập_tin:PresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Kết quả theo quận Tập_tin:RepublicanPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Quận bầu cho Đảng Cộng hòa, được tô sắc theo phần trăm phiếu bầu Tập_tin:DemocraticPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Quận bầu cho Đảng Dân chủ, được tô sắc theo phần trăm phiếu bầu Tập_tin:OtherPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Quận bầu cho ứng cử viên "Khác", được tô sắc theo phần trăm phiếu bầu Tập_tin:CartogramPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Tích đồ biểu thị kết quả theo quận Tập_tin:CartogramRepublicanPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Tích đồ biểu thị Quận bầu cho Đảng Cộng hòa Tập_tin:CartogramDemocraticPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Tích đồ biểu thị Quận bầu cho Đảng Dân chủ Tập_tin:CartogramOtherPresidentialCounty1868Colorbrewer.gif|Tích đồ biểu thị Quận bầu cho ứng cử viên "Khác"

Kết quả theo bang

Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, Presidential phiếu, 1836–1892 (Johns Hopkins University Press, 1955) trang 247–57.

Tiểu bang sít sao

Màu đỏ biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Ulysses S. Grant thắng; Xanh biểu thị bang đảng viên Dân chủ Horatio Seymour thắng.

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (8 phiếu đại cử tri)

California 0.48% (520 phiếu)

Oregon 0.74% (164 phiếu)

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 5% (93 phiếu đại cử tri)

New York 1.18% (9,995 phiếu)

New Jersey 1.76% (2,870 phiếu)

Alabama 2.50% (3,746 phiếu)

Indiana 2.79% (9,572 phiếu)

Connecticut 2.98% (2,944 phiếu)

Pennsylvania 4.41% (28,898 phiếu)

Các bang có tỷ lệ thắng dưới 10% (35 phiếu đại cử tri)

North Carolina 6.82% (12,380 phiếu)

Arkansas 7.37% (3,034 phiếu)

Ohio 8.01% (41,546 phiếu)

Thống kê

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Cộng hòa)

Quận Hancock, Tennessee (bài viết) 100.00%

Quận Monona, Iowa (bài viết) 100.00%

Quận Ottawa, Kansas (bài viết) 100.00%

Quận Jefferson, Nebraska (bài viết) 100.00%

Quận McDowell, West Virginia (bài viết) 100.00%

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Dân chủ)

Quận St. Landry, Louisiana (bài viết) 100.00%

Quận Lafayette, Louisiana (bài viết) 100.00%

Quận Jackson, Louisiana (bài viết) 100.00%

Quận De Soto, Louisiana (bài viết) 100.00%

Quận Franklin, Louisiana (bài viết) 100.00%

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho ứng cử viên Khác)

Quận DeKalb, Alabama (bài viết) 0.70%

Quận Sullivan, New Hampshire (bài viết) 0.11%

Quận Strafford, New Hampshire (bài viết) 0.09%

Quận Carroll, New Hampshire (bài viết) 0.02%

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1852** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 17, được tổ chức vào thứ ba, ngày 2 tháng 11 năm 1852. Ứng
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1860** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 19, được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Trong một cuộc
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1836** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần thứ 13, được tổ chức từ thứ năm, ngày 2 tháng 11 đến thứ tư ngày
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1848** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 16, được tổ chức vào thứ ba, ngày 7 tháng 11 năm 1848. Với
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1868** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 21, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1868. Đây
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1904** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 30, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 8 tháng 11 năm 1904. Tổng
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1872** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 22, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 5 tháng 11 năm 1872. Bất
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1864** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 20, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 8 tháng 11 năm 1864. Diễn
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
nhỏ|phải|Con dấu Tổng thống nhỏ|203x203px|[[Nhà Trắng là nơi ở chính thức của Tổng thống và trung tâm của chính phủ.]] Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, Tổng thống Hoa Kỳ là người đứng đầu nhà nước
**Nội chiến Hoa Kỳ** (, 12 tháng 4 năm 1861 – 9 tháng 5 năm 1865, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau), là một cuộc nội chiến diễn ra ở Hoa
**Hạ viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States House of Representatives, thường được gọi là: United States House_), còn gọi là **Viện Dân biểu Hoa Kỳ**, là một trong hai viện của Quốc hội Hoa
**Quốc hội Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Congress_) là cơ quan lập pháp của Chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Quốc hội là lưỡng viện, gồm có Hạ viện Hoa Kỳ và Thượng viện
**Thượng viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Senate_) là một trong hai viện của Quốc hội Hoa Kỳ. Thượng viện Hoa Kỳ, cùng với Hạ viện Hoa Kỳ, tạo thành cơ quan lập pháp
Ở Hoa Kỳ, **thống đốc** (tiếng Anh: _governor_) là người đứng đầu ngành hành pháp và là tổng tư lệnh của mỗi 50 tiểu bang và 5 vùng lãnh thổ có người sinh sống, ở
**Tổng thống Thụy Sĩ**, hay chính thức là **Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ** (còn gọi khác là **Chủ tịch Tổng Liên đoàn** **Thụy Sĩ**) (Đức: _Bundespräsident (in) der Eidgenossenschaft, Pháp:Président (e) de la Tổng
Quang cảnh xét xử luận tội [[Tổng thống Bill Clinton năm 1999, Thẩm phán trưởng Hoa Kỳ William Rehnquist làm chủ tọa đại diện được chọn lựa từ Hạ viện Hoa Kỳ ngồi bên cạnh
phải|nhỏ|[[Nhà Nariño, nơi cư trú và trung tâm của chính quyền chính thức của tổng thống]] Đây là **danh sách các tổng thống Colombia**. Theo Hiến pháp Colombia năm 1991, các Tổng thống Colombia là
| imagesize = | alt = | incumbent = ''Tranh chấp | incumbentsince = | style = Ngài | appointer = | termlength = Sáu năm | formation = 13 tháng 1, 1830 | inaugural
**Ulysses S. Grant** (tên khai sinh **Hiram Ulysses Grant**; ; 27 tháng 4 năm 182223 tháng 7 năm 1885) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 18
**James Buchanan** (23 tháng 4 năm 1791 - 1 tháng 6 năm 1868) là Tổng thống thứ 15 của Hoa Kỳ phục vụ từ năm 1857 đến năm 1861 trong giai đoạn ngay trước cuộc
**Puerto Rico** (phiên âm tiếng Việt: Pu-éc-tô Ri-cô, ), tên gọi chính thức là **Thịnh vượng chung Puerto Rico** (, ) là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ. Puerto Rico nằm
**Andrew Johnson** (29 tháng 12 năm 1808 - 31 tháng 7 năm 1875) là tổng thống thứ 17 của Hoa Kỳ và tại nhiệm từ năm 1865 đến năm 1867. Ông vốn là phó tổng
**Quan hệ Hoa Kỳ – Hy Lạp**, là mối quan hệ được xây dựng dựa trên tình hữu nghị giữa hai nước là Hoa Kỳ và Hy Lạp. Do các mối quan hệ lịch sử,
Bản đồ thể hiện sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, năm 2007. Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng
**Ủy ban Hạ viện Hoa Kỳ về Tư pháp**, còn được gọi là **Ủy ban Tư pháp Hạ viện (Hoa Kỳ)** (tiếng Anh: _U.S. House Committee on the Judiciary_/_House Judiciary Committee_), là một ủy ban
**Edwin McMasters Stanton** (19 tháng 12 năm 1814 - 24 tháng 12 năm 1869) là một luật sư và chính trị gia người Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln.
**Thaddeus Stevens** (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp
**Cuba** (), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Cuba** (tiếng Tây Ban Nha: _República de Cuba_) là một quốc đảo có chủ quyền nằm ở vùng Caribe. Cuba bao gồm đảo Cuba (hòn đảo
**South Carolina** () là một tiểu bang thuộc phía đông nam của Hoa Kỳ. Phía bắc giáp North Carolina, phía đông nam giáp Đại Tây Dương và phía tây nam giáp Georgia dọc theo sông
**Luật Jim Crow** là hệ thống luật lệ áp đặt chế độ phân chia chủng tộc của các tiểu bang và địa phương ở miền Nam Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu
**Frederick Douglass** (tên khai sinh: **Frederick Augustus Washington Bailey**, khoảng tháng 2 năm 1818 – 20 tháng 2 năm 1895) là nhà cải cách xã hội, nhà hùng biện, nhà văn và chính khách người
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Lincoln** (phát âm: **Lin-cơn**) là thủ phủ tiểu bang Nebraska. Thành phố rộng 99,05 dặm vuông (hay 256,53 km²) với dân số năm 2020 là 291.082 người. Thành phố là trung tâm kinh tế và văn
**Rutherford Birchard Hayes** (4 tháng 10 năm 1822 - 17 tháng 1 năm 1893) là tổng thống thứ 19 của Hoa Kỳ từ năm 1877 đến năm 1881, và từng là dân biểu của Hạ
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
**Lâm Sâm** (tiếng Hoa: 林森; bính âm: Lín Sēn; 1868 – 1 tháng 8 năm 1943), tự Tử Siêu (子超), hiệu **Trường Nhân** (長仁), là Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (Khi đó chức vụ
**Pendleton** (IPA: ) là một thành phố trong Quận Umatilla, tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ. Pendleton được các ủy viên quận đặt tên năm 1868 theo tên của George H. Pendleton, ứng cử viên phó
, hay **Thời đại Meiji**, là thời kỳ 45 năm dưới triều Thiên hoàng Minh Trị, theo lịch Gregory, từ 23 tháng 10 năm 1868 (tức 8 tháng 9 âm lịch năm Mậu Thìn) đến
**** là một quốc gia độc lập tồn tại trong một thời gian ngắn do những cựu thần cùng quan chức của chính quyền Mạc phủ Tokugawa thành lập vào ngày 27 tháng 1 năm
**Washington, D.C.**, tên chính thức là **Đặc khu Columbia** (), còn được gọi là **Washington** hoặc **D.C.**, là thủ đô và là đặc khu liên bang duy nhất của Hoa Kỳ. Nó tọa lạc trên
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
**Bóng bầu dục liên hiệp** (), **bóng bầu dục 15 người** (), hay chỉ đơn giản là **bóng bầu dục** (_rugby_), là một môn thể thao đồng đội cho phép va chạm có nguồn gốc
**Alfredo de Zayas y Alfonso** (21 tháng 2 năm 1861 – 11 tháng 4 năm 1934), thường gọi là **Alfredo de Zayas** theo phong tục đặt tên của Tây Ban Nha và còn gọi là
**Venceslau Brás** Pereira Gomes, ngày 26 tháng 2 năm 1868 đến ngày 15 tháng 5 năm 1966) là một chính trị gia Brasil, từng làm Tổng thống thứ 9 của Braxin trong thời gian từ
thumb|[[Bảng tuần hoàn]] **Nguyên tố hóa học**, thường được gọi đơn giản là **nguyên tố**, là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
thumb|_Tranh vẽ Vụ cháy của Jonh Chapin trên Tuần báo Happer_ **Đại hỏa hoạn Chicago** kéo dài từ ngày Chủ nhật 08 tháng 10 năm 1871 đến sáng ngày thứ Ba 10 tháng 10 năm
**Alexander Turney Stewart** (12 tháng 10 năm 1803 – 10 tháng 4 năm 1876) là một doanh nhân người Ailen thành công, người đã kiếm được khối tài sản trị giá hàng triệu đô la