✨Bari

Bari

Bari là một nguyên tố hoá học có ký hiệu là Ba và số hiệu nguyên tử là 56. Nó là nguyên tố thứ năm trong nhóm 2 của bảng tuần hoàn và là một kim loại kiềm thổ màu trắng bạc. Do có khả năng phản ứng hóa học rất cao nên bari không thể được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng nguyên tố tự do.

Các khoáng vật phổ biến nhất của bari trong tự nhiên là barit (bari sulfat, BaSO4) và witherit (bari carbonat, BaCO3), cả hai chất này đều không tan trong nước. Tên bari bắt nguồn từ dẫn xuất giả kim "baryta", từ tiếng Hy Lạp βαρύς (barys), có nghĩa là "nặng". Bari được xác định là một nguyên tố mới vào năm 1774, nhưng không bị khử thành kim loại cho đến năm 1808 với sự ra đời của điện phân.

Bari có ít ứng dụng công nghiệp. Trong lịch sử, nó được sử dụng làm chất thu khí cho đèn điện tử chân không. Nó là một thành phần của YBCO (chất siêu dẫn nhiệt độ cao) và gốm điện, đồng thời được thêm vào thép và gang để giảm kích thước của các hạt carbon trong cấu trúc vi mô. Các hợp chất bari được thêm vào pháo hoa để tạo ra màu xanh lục. Bari sulfat được sử dụng như một chất phụ gia không hòa tan trong dung dịch khoan giếng dầu, và ở dạng tinh khiết hơn, làm thuốc cản quang phóng xạ tia X để chụp ảnh đường tiêu hóa của con người. Các hợp chất bari tan có tính độc do sự giải phóng ion bari hòa tan, và đã được sử dụng làm thuốc diệt chuột.

Tính chất

Tính chất vật lý

thumb|left|Bari đã oxy hóa Bari là một kim loại mềm màu trắng bạc, bóng hơi vàng khi ở trạng thái siêu tinh khiết. Màu trắng bạc của kim loại bari biến mất nhanh chóng khi bị oxy hóa trong không khí tạo một lớp oxide màu xám sậm. Bari có trọng lượng riêng ở mức trung bình và tính dẫn điện tốt. Bari siêu tinh khiết rất khó tổng hợp nên nhiều tính chất của bari vẫn chưa được xác định một cách chính xác.

Ở nhiệt độ phòng, bari có cấu trúc lập phương tâm khối với khoảng cách giữa hai nguyên tử bari là 503 picomet, tăng dần khi nóng lên với tốc độ khoảng 1,8×10−5/°C. Nó là một kim loại rất mềm với độ cứng là 1,25 trên thang Mohs. Điểm nóng chảy của nó ở mức 1.000K (727 °C; 1.341 °F) nằm giữa nguyên tố nhẹ hơn, stronti (1.050K hay 777 °C; 1.431 °F) và nguyên tố nặng hơn, radi (969K hay 696 °C; 1.285 °F); tuy nhiên, điểm sôi của nó tại 2.118K (1.845 °C; 3.353 °F) cao hơn nhiều so với stronti (1.650K hay 1.377 °C; 2.511 °F). Khối lượng riêng của bari (3,62g/cm³) cũng nằm giữa nguyên tố stronti (2,64g/cm³) và radi (5g/cm³).

Tính chất hóa học

Bari có tính chất hóa học tương tự với magnesi, calci và stronti, cùng với khả năng phản ứng cao hơn rất nhiều. Nó gần như luôn có trạng thái oxy hóa là +2 trong các hợp chất. Phản ứng với chalcogen là phản ứng tỏa nhiệt mạnh (giải phóng năng lượng); phản ứng với oxy hoặc không khí xảy ra ở nhiệt độ phòng, và do đó bari thường được cất trữ trong dầu hỏa hoặc môi trường khí trơ. Phản ứng với các phi kim khác như carbon, nitơ, phosphor, silic và hydro thường là phản ứng tỏa nhiệt và xảy ra khi đun nóng. Phản ứng với nước và alcohol cũng tỏa nhiều nhiệt và giải phóng khí hydro: : Ba + 2 ROH → Ba(OR)2 + H2↑ (R là gốc hydrocarbon hoặc nguyên tử hydro)

Ngoài ra, bari tác dụng được với amonia để tạo ra các phức chất chẳng hạn như Ba(NH3)6.

Bari kim loại rất dễ bị ăn mòn bởi đa số acid. Acid sulfuric là một trường hợp ngoại lệ, do tính thụ động hóa làm phản ứng ngừng lại bằng cách tạo thành bari sulfat không tan. Bari kết hợp với một số kim loại khác như nhôm, kẽm, chì và thiếc tạo thành các pha kim loại trung gian và hợp kim.

Hợp chất

Muối bari thường có màu trắng ở dạng rắn và không màu khi bị phân hủy, do các ion bari không cho màu cụ thể. Chúng cũng có khối lượng riêng lớn hơn so với các muối stronti và calci tương ứng (xem bảng bên; khối lượng của muối kẽm được thêm vào để so sánh).

Bari hydroxide ("baryta") là một chất phổ biến ở các nhà giả kim thuật, được họ sản xuất bằng cách đun nóng bari carbonat. Khác với calci hydroxide, nó hấp thụ rất ít CO2 trong dung dịch nước và do đó ít nhạy cảm với điều kiện môi trường thay đổi. Tính chất này được ứng dụng trong việc kiểm định thiết bị đo độ pH.

Các hợp chất bari bay hơi cháy với ngọn lửa màu lục hoặc lục nhạt, và đó cũng là một cách hiệu quả để nhận biết một hợp chất của bari. Màu của ngọn lửa bắt nguồn từ các vạch quang phổ tại 455,4, 493,4, 553,6 và 611,1 nm.

Nhóm hợp chất hữu cơ của bari là một nhóm hợp chất đang tiếp tục được nghiên cứu: ví dụ, đã có một số hợp chất điankylbari cũng như ankylhalobari đã biết.

Đồng vị

Bari trong tự nhiên là hỗn hợp của 7 nuclide nguyên thủy, gồm bari-130, 132, và từ 134 đến 138. Trong số các đồng vị này, bari-138 chiếm 71,7%; các đồng vị còn lại (trừ bari-130) chiếm tỷ lệ càng nhỏ theo số khối giảm dần. Tính phóng xạ của các đồng vị này yếu đến mức chúng không có khả năng gây hại cho sự sống.

Tổng cộng, bari có 40 đồng vị đã biết với số khối từ 114 đến 153. Đồng vị phóng xạ tổng hợp bền nhất là bari-133 với chu kỳ bán rã khoảng 10,51 năm. Năm đồng vị khác có chu kỳ bán rã dài hơn một ngày. Tính chất lân quang của barit đun nóng với các chất hữu cơ được V. Casciorolus mô tả vào năm 1602.

Carl Scheele xác định được barit chứa một nguyên tố mới vào năm 1774, nhưng không phân lập được bari mà chỉ được bari oxide. Bari được Sir Humphry Davy phân lập thành công tại Anh vào năm 1808 qua điện phân muối bari nóng chảy. Dựa trên tính chất hóa học tương đồng với calci, Davy đặt tên nguyên tố là "barium" theo tên barit, trong đó hậu tố "-ium" chỉ nguyên tố kim loại.

Việc sản xuất oxy tinh khiết bằng quá trình Brin vào thập niên 1880 đã sử dụng một lượng lớn bari peroxide, trước khi quá trình này bị thay thế bằng điện phân và chưng cất phân đoạn không khí lỏng vào những năm 1900. Trong quá trình này bari oxide phản ứng với không khí ở 500–600 °C (932–1.112 °F) tạo ra bari peroxide, sau đó nó bị phân hủy ở nhiệt độ trên 700 °C (1.292 °F) giải phóng khí oxy: :2 BaO + O2 ⇌ 2 BaO2

Bari sulfat lần đầu tiên được ứng dụng làm thuốc cản quang phóng xạ trong ảnh chụp y khoa bằng tia X của hệ tiêu hóa người vào năm 1908.

Phân bố và sản xuất

Bari chiếm 0,0425% trong vỏ Trái Đất và 13 µg/L trong nước biển. Nguồn sản xuất bari chủ yếu trong thương mại là baryt, một khoáng vật chứa bari sulfat, với các mỏ khai thác trải dài khắp thế giới. Nguồn nguyên liệu thương mại thứ hai, ít quan trọng hơn barit, là witherit có chứa bari carbonat, với các mỏ khai thác chính nằm ở Anh, România và Liên Xô cũ.

Lượng dự trữ barit trên toàn cầu ước tính khoảng từ 0,7 đến 2 tỷ tấn. Sản lượng barit từng đạt đỉnh vào năm 1981 với 8,3 triệu tấn, nhưng chỉ có 7–8% trong số đó được sử dụng để điều chế kim loại bari hoặc hợp chất. Bắt đầu từ nửa sau thập niên 1990, sản xuất barit tăng trưởng nhanh, từ 4,4 triệu tấn năm 1996 lên 7,6 triệu tấn năm 2005, 7,8 triệu tấn năm 2011, và 8,9 triệu tấn vào năm 2019, trước khi giảm xuống còn 7,3 triệu tấn năm 2021 do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Ứng dụng

Kim loại và hợp kim

Bari, dưới dạng kim loại hoặc hợp kim với nhôm, được sử dụng để làm chất thu khí loại bỏ khí không mong muốn trong các ống chân không, chẳng hạn như đèn hình màu tivi. Nguyên nhân chính là do nó có áp suất hơi thấp và khả năng phản ứng cao với oxy, nitơ, carbon dioxide và nước; nó còn có thể thu được một phần khí hiếm bằng cách phân hủy chúng trên mạng tinh thể. Ứng dụng này hiện đang dần biến mất với sự ra đời của các loại tivi màn hình LCD và màn hình plasma không có ống chân không.

Một số ứng dụng ít phổ biến khác của nguyên tố bari bao gồm làm chất phụ gia cho hợp kim nhôm–silic để tinh chỉnh cấu trúc của chúng, cùng với:

  • hợp kim làm ổ trục;
  • hợp kim hàn chì–thiếc – để tăng khả năng chống rão;
  • hợp kim với niken dùng cho bugi đánh lửa;
  • chất thêm vào gang, thép dưới dạng chất tạo mầm;
  • hợp kim với calci, mangan, silic và nhôm làm chất chống oxy hóa đối với thép chất lượng cao.

Bari sulfat và barit

thumb|left|[[Bệnh lỵ amip thấy trong ảnh chụp X-quang của đại trực tràng đã chứa đầy bari]] Bari sulfat (khoáng vật barit, BaSO4) là một chất quan trọng trong công nghiệp xăng dầu do được dùng làm dung dịch khoan trong giếng dầu. Phần kết tủa của hợp chất (gọi là "blanc fixe", từ tiếng Pháp có nghĩa là "trắng vĩnh cửu") được sử dụng làm sơn và vecni; làm chất đệm trong mực kết vòng, nhựa dẻo và cao su; làm chất màu trong tráng phủ giấy; và dùng trong hạt nano để biến đổi tính chất vật lý của một số polyme, ví dụ như nhựa epoxy.

Bari sulfat có độc tính thấp và khối lượng riêng tương đối lớn, khoảng 4,5g/cm³ (và do đó có tính chắn sáng các tia X). Vì vậy, nó được sử dụng làm thuốc cản quang phóng xạ trong chụp X-quang hệ tiêu hóa người. Lithopone, một chất màu chứa bari sulfat và kẽm sulfide, có màu trắng vĩnh cửu với sức che phủ tốt cùng khả năng không bị tối màu khi tiếp xúc với muối sulfide.

Các hợp chất bari khác

thumb|Pháo hoa bari màu lục Các hợp chất khác của bari chỉ có một số ứng dụng hạn chế, giới hạn bởi độc tính của ion Ba2+ (bari carbonat là chất độc đối với chuột), vốn không phải là vấn đề đối với BaSO4 không tan.

  • Lớp bari oxide ở điện cực của đèn huỳnh quang giúp các electron dễ phát ra hơn.
  • Bari carbonat được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Là một nguyên tố nặng, bari làm tăng chiết suất và độ sáng của thủy tinh. Hợp chất này cũng được dùng để làm giảm rò rỉ tia X từ tivi ống tia âm cực (CRT).
  • Bari, thường dưới dạng bari nitrat, làm cho pháo hoa có màu lục. Chất tạo màu lục sáng là bari monochloride; nếu không có clo thì thay vào đó, pháo hoa sẽ có màu lục giống quả táo hoặc màu vàng.
  • Bari peroxide có thể được dùng làm chất xúc tác để bắt đầu phản ứng nhiệt nhôm khi hàn các thanh ray lại với nhau. Nó cũng có trong đạn pháo hiệu màu lục và được dùng làm chất tẩy màu.
  • Bari titanat là một loại gốm điện tiềm năng.
  • Bari fluoride có ứng dụng làm vật liệu quang phổ hồng ngoại do cự ly truyền ở mức rộng, khoảng 0,15 đến 12 micromet.
  • YBCO là chất siêu dẫn nhiệt độ cao đầu tiên có thể được làm lạnh bằng nitơ lỏng, do nhiệt độ chuyển tiếp ở mức 93K lớn hơn điểm sôi của nitơ (77 K).

Nguy hại sinh học và cảnh báo

Do khả năng phản ứng rất mạnh của kim loại bari nên thông tin về độc tính chỉ có sẵn đối với hợp chất của nó. Các hợp chất bari tan trong nước có tính độc. Ở liều thấp, ion bari đóng vai trò là chất kích thích bắp cơ, trong khi liều cao làm ảnh hưởng đến hệ thần kinh, dẫn đến rối loạn về tim, bệnh run, yếu cơ, lo âu, khó thở và liệt. Hiện tượng này có thể do Ba2+ có khả năng chặn kênh ion kali, vốn có vai trò đặc biệt thiết yếu giúp hệ thần kinh hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, các hợp chất bari tan trong nước (hay ion bari) cũng làm ảnh hưởng đến mắt, hệ miễn dịch, tim, hệ hô hấp và da, dẫn đến một số chứng bệnh như gây nhạy cảm hoặc mù lòa. Tuy nhiên, bụi chứa hợp chất bari không tan có thể tích tụ trong phổi, dẫn đến một căn bệnh lành tính có tên gọi là bệnh bụi bari (baritosis). Khác với các chất độc hòa tan khác, bari sulfat không tan là chất không gây độc và không được xếp trong danh mục hàng hóa nguy hiểm.

Để tránh xảy ra phản ứng hóa học mạnh, kim loại bari được cất giữ trong môi trường argon hoặc dầu khoáng. Việc tiếp xúc với không khí sẽ gây nguy hiểm do nó có thể bắt lửa. Hơi ẩm, ma sát, nhiệt, tia lửa, ngọn lửa cháy, va chạm, tĩnh điện, và tiếp xúc với acid hay các chất oxy hóa cần được tránh xa. Tất cả những gì có thể tiếp xúc với bari cần được nối đất. Người làm việc với kim loại này phải đeo giày chống cháy đã làm sạch, quần áo cao su chịu lửa, bao tay cao su, tạp dề, kính bảo hộ và mặt nạ chống độc; không được hút thuốc tại nơi làm việc và phải rửa tay sạch sẽ sau khi cầm bari.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bari** là một nguyên tố hoá học có ký hiệu là **Ba** và số hiệu nguyên tử là 56. Nó là nguyên tố thứ năm trong nhóm 2 của bảng tuần hoàn và là một
**Bari chloride** là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học BaCl2. Nó là một trong các muối hòa tan trong nước phổ biến nhất của bari. Giống như các muối bari khác,
**Bari oxide**, còn gọi là **oxide bari** (công thức **BaO**, còn được biết đến trong ngành gốm sứ và khai khoáng là **baria**) là một oxide của bari. Nó có phân tử gam bằng 153,3
**Bari nitrat** với công thức hóa học Ba(NO3)2 là một muối của bari với ion nitrat. Bari nitrat là một chất rắn màu trắng ở nhiệt độ phòng. Nó hòa tan trong nước, và giống
**Bari Chromiat** là một hợp chất dạng cát màu vàng giống như bột với công thức hóa học **BaCrO4**. Nó là một tác nhân oxy hóa thường gặp và tạo ra một ngọn lửa màu
**Bari cacbonat** (BaCO3), có trong tự nhiên ở dạng khoáng vật **witherit**, là một hợp chất hóa học có trong bả chuột, gạch nung, gốm tráng men và xi măng. ## Điều chế Bari cacbonat
**Bari acetat** (Ba(C2H3O2)2) là muối của bari(II) và acid acetic. ## Điều chế Bari acetat thường được tạo ra bởi phản ứng của acid acetic với bari carbonat: : BaCO3 + 2 CH3COOH → (CH3COO)2Ba +
**Bari bromide** là hợp chất hóa học với công thức hóa học là BaBr2. Như bari chloride, nó cũng tan trong nước, và là dung dịch độc hại ## Cấu trúc BaBr2 kết tinh trong
**Bari hydroxide** là hợp chất hóa học với công thức hóa học Ba(OH)2(H2O)x. Chất ngậm nước đơn (x =1) được biết đến với tên baryta, là một trong những hợp chất chính của bari. Hạt
**Bari** ( ) (phương ngữ Bari: **_Bare_**; ; , _Bárion_) là thủ phủ của vùng Apulia, nằm kế biển Adriatic, tại Ý. Đây là trung tâm kinh tế quan trọng thứ hai ở đất liền
**Thành phố đô thị Bari** () thuộc vùng Apulia của Ý. Thủ phủ là thành phố Bari. Nó thay thế tỉnh Bari từ năm 2015 và bao gồm thành phố Bari và khoảng 40 khu
**Bari titanate** là hợp chất vô cơ có thành phần gồm nguyên tố bari và nhóm titanate, với công thức hóa học được quy định là BaTiO3. Bari titanate tồn tại dưới dạng là bột
**Bari chlorrat** là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học được quy định là **Ba(ClO3)2**. Hợp chất này tồn tại dưới dạng là một chất rắn kết tinh, có màu trắng và
**Bari sulfide** là hợp chất vô cơ với công thức BaS. BaS là ​​một tiền thân quan trọng của các hợp chất bari khác bao gồm BaCO3 và lithopone, ZnS/BaSO4. Giống như các chất chalcogenides
**Bari azide** là một hợp chất vô cơ có chứa nhóm azide có công thức hóa học là **Ba(N3)2**. Nó là một muối bari của acid hydrazoic. Giống như hầu hết các hợp chất azide
**Bari manganat** là một hợp chất vô cơ với công thức **BaMnO4**. Nó được sử dụng như một chất oxy hóa trong hóa học hữu cơ. Nó thuộc về một loại hợp chất gọi là
**Bari permanganat** là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học **Ba(MnO4)2**. ## Điều chế Bari permanganat có thể được tạo ra bằng phản ứng dị phân của bari manganat trong dung dịch
**Bari peroxide** là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học BaO2. Chất rắn màu trắng này (màu xám khi không nguyên chất) là một trong những peroxide vô cơ phổ biến nhất,
**Tỉnh Bari** (tiếng Ý: Provincia di Bari) là một tỉnh cũ trong khu vực (hoặc Puglia) Apulia của Italia. Tỉnh lỵ là thành phố Bari. Từ năm 2015, tỉnh Bari bị thay thế bằng thành
**Sao bari** là các sao có phổ từ G đến K,, có phổ cho thấy sự dư thừa của các nguyên tố quá trình s bởi sự hiện diện của bari bị ion hóa đơn,
**Bari ferrit**, còn được gọi đến với nhiều tên gọi viết tắt khác nhau như BaFe, BaM, là hợp chất hóa học với công thức hóa học được quy định là BaFe12O19. Bari ferrit (BaFe)
**Bari fluoride** (công thức hóa học: **BaF2**) là một hợp chất vô cơ của bari và fluor và là một muối. Nó là một chất rắn có dạng tinh thể trong suốt. Nó tồn tại
**Bari sulfat** (hoặc **sunfat**) là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học BaSO4. Nó là một chất có tinh thể màu trắng không mùi và không tan trong nước. Nó xuất hiện
nhỏ|Quá trình thi đấu của Bari trong cấu trúc giải đấu bóng đá Ý kể từ mùa giải đầu tiên của một Serie A thống nhất (1929/30). **Società Sportiva Calcio Bari**, thường được gọi là
**Bari Brahmana** là một thị xã và là nơi đặt ủy ban khu vực quy hoạch (_notified area committee_) của quận Jammu thuộc bang Jammu và Kashmir, Ấn Độ. ## Nhân khẩu Theo điều tra
**Bari Sadri** là một thành phố và khu đô thị của quận Chittaurgarh thuộc bang Rajasthan, Ấn Độ. ## Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Bari Sadri có dân
**Bari Sardo** (Latin: **Custodia Rubriensis**) là một đô thị tại tỉnh Ogliastra trong vùng Sardinia, có vị trí khoảng 80 km về phía đông bắc của Cagliari và khoảng 9 km về phía nam của Tortolì. Tại
**London Bari Football Club** là một câu lạc bộ bóng đá đến từ London, Anh, hiện đang thi đấu tại Essex Senior League trên sân nhà của Clapton là Old Spotted Dog Ground. ## Lịch
**_Augochloropsis bari_** là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Dominique mô tả khoa học năm 1898.
**_Hypercompe bari_** là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
**Leonardo Bonucci** (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1987) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý từng thi đấu ở vị trí trung vệ. Nổi tiếng nhờ lối chơi giàu kỹ
**Sân vận động San Nicola** (; ) là một sân vận động đa năng toàn chỗ ngồi ở Bari, Ý. Sân vận động được thiết kế bởi Renzo Piano. Sân hiện được sử dụng chủ
• Màng lọc hữu cơ Tinosorb M kết hợp với các màn lọc tia UVA / UVB chống nắng cao, SPF50+ • Chống nắng cùng với giữ ẩm và làm dịu làn da (Nước khoáng
• Màng lọc hữu cơ Tinosorb M kết hợp với các màn lọc tia UVA / UVB chống nắng cao, SPF50+• Chống nắng cùng với giữ ẩm và làm dịu làn da (Nước khoáng Uriage
• Màng lọc hữu cơ Tinosorb M kết hợp với các màn lọc tia UVA / UVB chống nắng cao, SPF50+• Chống nắng cùng với giữ ẩm và làm dịu làn da (Nước khoáng Uriage
**Barit** (_baryt_), công thức (**BaSO4**), là một khoáng vật chứa bari sunfat. Tên gọi Barit được lấy từ tiếng Hy Lạp _βαρύς_ (có nghĩa là nặng). Thuật ngữ "barit nguyên thủy" dùng để chỉ sản
**Gaetano Castrovilli** (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Fiorentina và đội tuyển quốc
**Bitonto** là một thành phố và cộng đồng (_comune_) thủ phủ tỉnh Crotone trong vùng Pugliao miền bắc nước Ý. Bitonto có cự ly về phía tây Bari, gần bờ biển của biển Adriatic. Đô
**Molfetta** là một thành phố và cộng đồng (_comune_) thủ phủ tỉnh Bari trong vùng Apulia miền nam nước Ý. Đô thị Molfetta có diện tích ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm
**Mijat Marić** (sinh 30 tháng 4 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ gốc Croatia, hiện tại thi đấu cho câu lạc bộ Belgian Pro League Lokeren. Anh là một hậu vệ.
Chi tiết bích họa từ một ngôi mộ thời Đông Hán gần [[Lạc Dương, Hà Nam chỉ ra hai người đang chơi lục bác, chứa cả chất màu lam Hán và chất màu tía Hán.]]
**Matteo Ciofani** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1988) là một cựu cầu thủ bóng đá người Ý thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải. ## Sự nghiệp thi đấu ### Pescara và
Humphry Davy **Humphry Davy, Tòng nam tước thứ nhất**, FRS (thông thường viết và phát âm không chính xác là _Humphrey_; 17 tháng 12 năm 1778 – 29 tháng 5 năm 1829) là một nhà vật
**Mũi Guardafui** (chữ Somali: _Gees Gardafuul_, _Raas Caseyr_ hoặc _Ras Asir_, chữ Ả Rập: راس عسير, chữ Ý: _Capo Guardafui_) là một mũi đất nằm ở bang Bari, Somalia - quốc gia Đông Bắc Phi.
**Benitoit** là một khoáng vật silicat vòng màu xanh của bari, titan, có công thức hóa học là BaTiSi3O9. Nó được George D. Louderback mô tả đầu tiên năm 1907, ông đã đặt tên nó
**Nabalamprophyllit** là một khoáng vật silicat đảo kép, có công thức hóa học là Ba(Na,Ba){Na3Ti[Ti2O2Si4O14](OH,F)2}. Tên gọi có nguồn gốc từ hợp phần các nguyên tố của nó (Naba, natri -Na và bari -Ba), và
**Triggiano** là một đô thị và cộng đồng (_comune_) ở tỉnh Bari trong vùng Puglia miền nam nước Ý. Đô thị Triggiano có diện tích ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm 2001
**Altamura** là một đô thị và cộng đồng (_comune_) ở tỉnh Bari trong vùng Puglia miền nam nước Ý. Đô thị Altamura có diện tích 427 ki lô mét vuông, dân số thời điểm năm
**Haggertyit** là một khoáng vật hiếm gặp của bari, sắt, magiê, titanat: Ba(Fe2+6Ti5Mg)O19 được mô tả đầu tiên năm 1996 ở Murfreesboro, Quận Pike, Arkansas. Các tinh thể ánh kim dưới kính hiển vi có
**Witherit** là một khoáng vật cacbonat bari, có công thức hóa học BaCO3, thuộc nhóm aragonit. Cho đến thế kỷ 18, những người nông dân ở Anglezarke đã sử dụng khoáng vật làm thuốc diệt