✨Antonov An-2
Antonov An-2 (nickname tiếng Nga: кукуру́зник kukuruznik - một nông trang viên trồng ngô (kế thừa từ Polikarpov Po-2) cũng được gọi là Annushka; tên hiệu NATO Colt) là một loại máy bay hai tầng cánh hạng nhẹ, một động cơ, có độ tin cậy rất cao, cất cánh lần đầu năm 1947 và là máy bay đầu tiên được thiết kế bởi Antonov. Nó được sử dụng như một máy bay vận tải hạng nhẹ, có thể chở 12 hành khách, để chở các đơn vị lính dù cũng như hoạt động trong nông nghiệp. Khả năng bay rất chậm và cất hạ cánh đường băng ngắn của nó khiến nó rất thích hợp để hoạt động tại các đường băng ngắn và đường băng dã chiến. Một số biến thể đặc biệt của nó đã được chế tạo để hoạt động tại các điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Sách Kỷ lục Guinness đã ghi kỷ lục An-2 là máy bay được duy trì sản xuất với thời gian lâu nhất - 45 năm.
Tính đến ngày 8 tháng 1 năm 2023, đã có 802 vụ tai nạn An-2, cướp đi tổng cộng 825 sinh mạng.
Sử dụng và đặc điểm
nhỏ|phải|Một chiếc An-2 tư nhân tại [[Triển lãm hàng không Miramar.]] An-2 là loại máy bay hai tầng cánh một động cơ lớn nhất từng được chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng lớn; tới năm 1960 hơn 5.000 chiếc đã được sản xuất tại Liên bang Xô viết. Từ năm 1960, đa số An-2 được sản xuất tại nhà máy WSK của Ba Lan tại Mielec, với hơn 13.000 nghìn chiếc đã được chế tạo trước khi hoạt động này chấm dứt năm 1991. Chế tạo hạn chế từ các chi tiết tồn và chi tiết dành cho bảo dưỡng vẫn tiếp tục. An-2 cũng được chế tạo theo giấy phép tại Trung Quốc với tên gọi Shijiazhuang Y-5. Đây là loại máy bay hai tầng cánh lớn nhất vẫn còn hoạt động.
An-2 được thiết kế như một máy bay đa dụng để sử dụng tại các lâm trường và nông trường nhà nước. Tuy nhiên, khung sườn rất dễ thích nghi với các điều kiện thiên nhiên nên nhiều biến thể khác nhau đã được phát triển. Bao gồm phiên bản chuyên dụng để phun thuốc trừ sâu, phục vụ khoa học để lấy mẫu khí quyển, chữa cháy rừng, bay cứu thương, thủy phi cơ, phiên bản quân sự trang bị nhẹ để đổ quân dù, và phiên bản An-2T là loại dân dụng chở khách 12 chỗ ngồi. Tuy nhiên dù ở phiên bản nào thì máy bay vẫn có công suất động cơ 1000 HP với động cơ xuyên tâm 9 xi lanh siêu nạp Shvetsov ASh-62 được phát triển từ loại Wright R-1820.
nhỏ|Một chiếc An-2 tư nhân khác tại Warsaw An-2 có các đặc tính thiết kế khiến nó thích hợp hoạt động tại các vùng khí hậu xa xôi khắc nghiệt với các đường băng dã chiến bằng đất đá vốn không mấy bằng phẳng cho công việc cất hạ cánh của máy bay:
- Máy bay được trang bị một hệ thống phanh khí (tương tự như hệ thống được sử dụng trên các ô tô tải hạng nặng) cho phép hạ cánh trên đường băng ngắn.
- Bình ăc quy của máy bay khá lớn và dễ tháo lắp, nên có thể khởi động không cần máy phát điện phụ dưới mặt đất.
- Không cần bơm ngoài để nạp nhiên liệu cho máy bay, bởi nó có sẵn một bơm trong khoang cho phép nạp nhiên liệu từ các bình chứa thông thường.
- Các hệ thống được đơn giản hóa tối đa.
- Các cánh tà giúp máy bay hoạt động ở tốc độ thấp được vận hành hoàn toàn tự động. Khi bay nhanh, các cánh tà được hút chặt vào cánh nhờ vào chênh lệch áp suất và sức gió. Khi tốc độ giảm dưới 64 km/h (40 mph) khi sức gió không đủ, các cánh tà sẽ từ động hạ xuống bởi chúng được lắp trên những thanh cao su đàn hồi.
- Độ dài đường băng cất cánh tối thiểu: 170 m, Độ dài đường băng hạ cánh tối thiểu: 215 m (thực tế có thể khác biệt tùy theo trọng lượng mang theo, gió,...).
nhỏ|phải|Một chiếc An-2 tư nhân đang khởi động ở Lithuania Một dòng ghi chú đáng lưu ý trong sổ tay của phi công viết: "Nếu động cơ ngừng hoạt động khi bạn đang bay và chỉ điều khiển thông qua dụng cụ (bay mù khi không nhìn thấy mặt đất) hoặc vào ban đêm, phi công cần kéo cần điều khiển hết cỡ về phía sau (yên tâm rằng máy bay sẽ không thất tốc) và giữ vững thăng bằng. Các tấm cánh tà sẽ tự động nhả ra ở tốc độ khoảng 64 km/h (40 mph), khi tốc độ khoảng 40 km/h (25 mph), máy bay sẽ lượn đi với tốc độ tương đương hạ cánh bằng dù cho tới khi chạm đất."
Trong sổ tay hướng dẫn của An-2 không ghi tốc độ tối thiểu (stall speed) dẫn tới thất tốc. Thất tốc (stall) là khi tốc độ của máy bay bay quá chậm khiến lực nâng được tạo ra ở cánh không đủ để nâng máy bay lên. Các phi công An-2 nói rằng máy bay có thể hoàn toàn kiểm soát được ở tốc độ 30 dặm trên giờ (trong khi đó, một chiếc Cessna hiện đại 4 chỗ cần tối thiểu khoảng 55 dặm trên giờ để có thể bay). Điều này cho phép máy bay có thể bay lùi. Nếu máy bay hướng về một luồng không khí nóng, có tốc độ khoảng 35 mph, nó sẽ bay lùi với tốc độ 5 mph và vẫn ở tình trạng hoàn toàn kiểm soát được được. Vì khi này, luồng gió ngược từ trước ra sau máy bay tương tự như khi đang bay, nên cơ bản là vẫn có thể tạo đủ lực nâng cho cánh. Điều này tất nhiên cũng đúng với hầu như tất cả các loại máy bay cất hạ cánh đường băng ngắn STOL.
nhỏ|phải|Một chiếc An-2 tư nhân khác tại Anh Quốc. Từ khi Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu tan rã, đa số các hãng hàng không tại các nước này đã cho An-2 của họ ngừng khai thác (một số chiếc đã hơn 40 năm tuổi). Bên cạnh đó, những chiếc máy bay này vẫn được một số tư nhân sử dụng cho tới ngày nay. Bên cạnh đó, nhờ vào sự ổn định, khả năng và tốc độ bay thấp của nó, An-2 rất thích hợp làm máy bay thả dù.
Đầu thập niên 1980, Antonov đã thử nghiệm một phiên bản An-2 mới được trang bị động cơ tuốc bin cánh quạt hiện đại. Với động cơ Glushenkov 1450 sức ngựa này, chiếc máy bay có thể hoạt động xa hơn. Xem bài viết về Antonov An-3 để biết thêm chi tiết.
Tuy có độ ồn cao, yêu cầu bảo dưỡng thường xuyên và tiêu thụ nhiên liệu lớn, nhưng lại đơn giản (thời gian kiểm tra trước khi bay chỉ mất 30 đến 40 phút) nhưng vô tình lại khiến chúng không đạt đủ tiêu chuẩn an toàn để có thể hoạt động ở châu Âu. Số lượng máy bay chế tạo lớn nên giá thành rất thấp (chỉ 30.000 USD cho một chiếc còn hoạt động trơn tru). Điều này biến nó trở thành loại máy bay lý tưởng cho thế giới đang phát triển, nơi khả năng chở nặng và hoạt động trên những đường băng ngắn được nhiều hãng hàng không giá rẻ khai thác. Nhiều chiếc An-2 cũ của Aeroflot hiện được dùng làm máy bay chở khách tầm ngắn tại châu Phi, Trung và Nam Mỹ, Cuba và tiểu lục địa Ấn Độ.
nhỏ|trái|Đồng lưu niệm 10 [[Hryvna Ukraine năm 2003 có khắc hình một chiếc An-2.]]
Bắc Triều Tiên cũng sở hữu cho mình một số máy bay loại này. Mọi người tin rằng cánh quạt gỗ và cánh bằng vải trên những biến thể An-2 (phiên bản Y-5 sản xuất theo giấy phép tại Trung Quốc) làm chúng có diện tích phản hồi radar nhỏ, và vì thế tăng khả năng tàng hình. Trong chiến tranh, An-2 được dùng để thả lực lượng dù tinh nhuệ cho các chiến dịch phá hoại sau giới tuyến.
Khả năng của An-2, cùng các đặc tính ngoại hình và trên vị thế là 'Máy bay hai tầng cánh lớn nhất thế giới' nên nhu cầu mua bán loại máy bay này đang gia tăng tại Hoa Kỳ và châu Âu để sưu tầm. Nên ta có thể dễ dàng bắt gặp An-2 xuất hiện tại các cuộc triển lãm hàng không. Tuy nhiên, hầu như tất cả các nước phương Tây (Hoa Kỳ, Canada, Anh Quốc, Pháp, Đức,..) lại không thể được sử dụng An-2 trong thương mại (dù tiềm năng rõ ràng của nó trong hoạt động như một bush plane và máy bay thả dù). Điều này bởi vì chiếc máy bay chưa hề được cấp chứng nhận bởi cơ quan chức trách tại các quốc gia có hạn chế sử dụng nó. Các quy định này khác biệt theo từng nước, nhưng tất cả đều không chấp nhận cho sử dụng An-2 vào mục đích 'thu lợi nhuận'. Tại Hoa Kỳ, những chiếc An-2 đã được nhập khẩu từ năm 1993 không được bay quá 300 dặm từ sân bay xuất phát, và chúng chỉ có thể quay về hạ cánh trên sân bay cất cánh; tuy nhiên, những chiếc An-2 do PZL chế tạo là ngoại lệ bởi một thỏa thuận song phương với Ba Lan.
Biến thể
nhỏ|phải|Antonov An-2E WIG Nguồn:
Phiên bản Xô viết/Nga
- SKh-1 — tên định danh đầu tiên của An-2.
- An-2F — máy bay thực nghiệm quan sát pháo binh với cánh đuôi kép, vị trí người quan sát dưới thân và súng máy bảo vệ đặt trên lưng .
- An-2L — máy bay cứu hỏa bằng hóa chất.
- An-2LV — _Lesnoj Vodnyj_ (thủy phi cơ), máy bay chữa cháy.
- An-2P — _passazhirskij_, phiên bản chở khách.
- An-2P — _protivopozharnij_, chữa cháy bằng nước.
- An-2S — cứu thương.
- An-2V — phiên bản hoạt động trên biển, cũng được gọi là An-4.
- An-2VA — thả nước.
- An-2ZA — _Zondirovanie Atmosfery_ (thu thập mẫu khí quyền), nghiên cứu thời tiết trên độ cao lớn (cũng được gọi là An-6 Meteo).
- An-2E — Ekranoplan cải tiến ().
Phiên bản Nga/Ukraine
- An-3 — Loại mới sản xuất với động cơ tuốc binh cánh quạt phát triển từ An-2.
Phiên bản Ba Lan
nhỏ|phải|Antonov An-2 với dấu hiệu Ba Lan
- An-2 Geofiz — mô hình địa vật lý Geofiz.
- An-2D5 — phiên bản chở VlP 5 chỗ.
- An-2D6 — phiên bản chở VlP 6 chỗ.
- An-2T — Phiên bản Ba Lan của kiểu An-2 đầu tiên.
- An-2M hay An-2W — Phiên bản Ba Lan của kiểu An-2V thủy phi cơ.
Phiên bản Trung Quốc
- Y-5 — Phiên bản Trung Quốc của An-2, ban đầu được chế tạo theo kế hoạch và dưới sự giám sát của cố vấn Xô viết.
;
: Không quân Ba Lan ;: Không quân Romania ;: Không quân Nga ;: Không quân Serbia: ;- Phi đội Hỗn hợp 119: 1 hay 2 chiếc An-2TD được sử dụng để huấn luyện Tiểu đoàn dù 63. ; ;: Không quân Xô viết: Phi đội An-2 quân sự được chia cho các quốc gia độc lập sau khi Liên Xô tan rã. ; ; ; Tanzania ; ; ; ; thumb|An-2 của [[Công ty bay dịch vụ hàng không|Cty VASCO phục vụ đo địa vật lý ở Việt Nam, 2005.]] ;: Không quân Nhân dân Việt Nam:Sử dụng từ Chiến tranh Việt Nam trong vai trò máy bay vận tải. Hiện nay dùng làm máy bay do thám, đo địa vật lý, chụp ảnh môi trường. ; Phi đội An-2 thừa kế từ Bắc Yemen sau khi thống nhất. ;: Không quân SFR Nam Tư: ;- 676. TRAE ;- 677. TRAE ;- 333. AE
Dân sự
; Đông Đức: Interflug
;
Thông số kỹ thuật (An-2)
Tập tin:Antonov An-2 3view.svg Hình chiếu Antonov An-2.. Hình chiếu Antonov An-2T..
Đặc điểm riêng
- Phi hành đoàn: 1-2 người
- Sức chứa: 12 hành khách
- Chiều dài: 12.4 m (40 ft 8 in)
- Sải cánh: Cánh trên: 18.2 m (59 ft 8 in) Cánh dưới: 14.2 m (46 ft 9 in)
- Chiều cao: 4.1 m (13 ft)
- Diện tích cánh: 71.52 m² (ft²)
- Trọng lượng rỗng: 3.300 kg (7.300 lb)
- Trọng lượng cất cánh: 5.500 kg (12.000 lb)
- Động cơ: 1× động cơ bố trí tròn tăng nạp Shvetsov ASh-62R, 1.000 hp (750 kW)
Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 258 km/h (139 knots, 160 mph)
- Vận tốc hành trình: 190 km/h (100 knots, 120 mph)
- Vận tốc tối thiểu: ~50 km/h (26 knots, 30 mph)
- Tầm bay: 845 km (456 nm, 525 mi)
- Trần bay: 4.500 m (14.750 ft)
- Vận tốc lên cao: 3.5 m/s (700 ft/min)
- Lực đẩy/trọng lượng: 140 W/kg (0.83 hp/lb)