✨Antonov An-225 Mriya
Antonov An-225 _Mriya_ (tiếng Ukraine: Антонов Ан-225 Мрія, tên ký hiệu của NATO: Cossack) là máy bay vận tải do Tổ hợp Khoa học Công nghệ Hàng không Antonov thuộc Liên Xô cũ chế tạo, và hiện là loại máy bay vận tải lớn nhất thế giới và đã từng hoạt động trước khi Liên Xô tan rã cho đến 2022 sau khi cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đang diễn ra. Ban đầu được thiết kế với mục đích chuyên chở tàu vũ trụ Buran nhưng sau sự sụp đổ của Liên Xô, chiếc máy bay này được chuyển giao cho Ukraine và được sử dụng để vận chuyển những vật thể có kích thước lớn.
Với tổng trọng lượng tối đa 640 tấn (1.411.000 lb), An-225 là máy bay nặng nhất thế giới. Chiếc Hughes H-4 Hercules, nổi tiếng với cái tên "Spruce Goose", có sải cánh lớn hơn, nhưng mới chỉ cất cánh một lần và chưa đạt đến độ cao 70 ft (21.3 m); An-225 là máy bay lớn nhất trên thế giới đã cất hạ cánh nhiều lần. An-225 cũng lớn hơn máy bay chở khách Airbus A380, và lớn hơn rất nhiều so với Antonov An-124, Boeing 747-400LCF,và Lockheed C-5 Galaxy, chiếc máy bay vận tải có tầm vóc đứng ngay sau nó.
Tháng 11 năm 2004, Liên đoàn Hàng không Quốc tế (FAI) đã đưa An-225 vào Sách kỷ lục Guinness với 240 kỷ lục.
Antonov An-225 được thương mại sẵn sàng để mang bất kỳ hàng hóa có trọng tải như thế nào do kích thước khoang chứa hàng hóa cực lớn của nó. Hiện nay, chỉ có duy nhất một chiếc mang số hiệu UR-82060 hiện đang hoạt động.
Trong trận đánh Sân bay Antonov giữa Nga và Ukraine năm 2022, chiếc máy bay lớn nhất thế giới Antonov AN-225 đã bị phá hủy. nhỏ|[[Bánh xe (máy bay)|Bánh đáp chính An-225]]
Phát triển
nhỏ|phải|Tàu con thoi Buran được mang bởi An-225 An-225 được thiết kế cho chương trình không gian Xô viết như một giải pháp thay thế cho Myasishchev VM-T. Có khả năng vận chuyển bằng đường không tên lửa đẩy Energia và tàu vũ trụ Buran, nhiệm vụ và các mục đích của nó hầu như tương tự với loại Beluga của Airbus và Super Guppy Turbine của Hoa Kỳ.
An-225 là sự mở rộng bản thiết kế An-124 trước đó của Antonov. Để đảm đương được vai trò mới, thân máy bay được mở rộng suốt chiều dài. Một chiếc An-225 thứ hai đã được chế tạo một phần cuối thập niên 1980, cho Chương trình vũ trụ Xô viết. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991 và sự hủy bỏ chương trình vũ trụ Buran chiếc An-225 duy nhất hoạt động được đưa vào bảo quản. Sáu động cơ Lotarev được tháo dỡ sử dụng trên những chiếc An-124, và bộ khung chiếc An-225 thứ hai (gần hoàn thành và đang chờ được lắp động cơ) cũng bị xếp xó.
Quá trình hoạt động
nhỏ|An-225 tại [[Sân bay Manchester năm 2006]] nhỏ|phải|So sánh kích thước giữa 5 loại máy bay lớn nhất thế giới Cuối thập niên 1980, chính phủ Xô viết bắt đầu tìm cách thu lợi nhuận từ các vật tư quân sự của mình.
Năm 1989, một công ty cổ phần được Phòng Thiết kế Antonov thành lập với lĩnh vực hoạt động vận chuyển hàng không hạng nặng dưới cái tên "Antonov Airlines", đóng trụ sở tại Kiev, Ukraine và hoạt động từ Sân bay Luton London liên doanh với Air Foyle HeavyLift..
Công ty này bắt đầu hoạt động với một phi đội bốn chiếc An-124-100 và ba chiếc Antonov An-12, nhưng tới cuối thập niên 1990 rõ ràng những chiếc An-124 không đáp ứng nổi nhu cầu vận chuyển những hàng hóa lớn hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu này, chiếc An-225 được thay động cơ, chuyển đổi thích hợp cho vận chuyển hàng hóa hạng nặng, và đưa vào sử dụng dưới sự quản lý của Antonov Airlines.
Ngày 23 tháng 5 năm 2001, An-225 nhận được giấy chứng nhận từ Ủy ban Đăng ký Hàng không Liên quốc gia (IAC AR). Chuyến bay thương mại đầu tiên của nó xuất phát từ Stuttgart, Đức ngày 3 tháng 1 năm 2002, bay tới Thumrait, Oman với 216.000 suất ăn chuẩn bị sẵn cho binh sĩ Mỹ đang đóng quân trong vùng. Số lượng suất ăn chuẩn bị sẵn to lớn này được đặt trong 375 pallet và có tổng trọng lượng 187.5 tấn. Từ đó An-225 đã trở thành chiếc máy bay chủ lực trong phi đội của Antonov Airlines, vận chuyển những đồ vật từng được cho là không thể vận chuyển bằng đường không như đầu xe lửa, máy phát điện nặng tới 150 tấn, cũng như trở thành một tài sản giá trị của các tổ chức viện trợ quốc tế vì khả năng vận chuyển to lớn của nó với những loại hàng hóa viện trợ khẩn cấp trong các chiến dịch cứu trợ.
Tới năm 2000, rõ ràng nhu cầu với An-225 đã vượt quá khả năng hoạt động của nó, và vào tháng 9 năm 2006, bộ khung của chiếc An-225 thứ hai đã được dự định tân trang và hoàn thành vào giữa năm 2008. Tuy nhiên, thời điểm hoàn thành dự án liên tục bị hoãn lại. Tháng 8 năm 2009, chương trình của máy bay này chính thức ngưng lại dang dở vì lý do thiếu kinh phí.
Đầu tháng 6 năm 2003, chiếc An-225 duy nhất, cùng với những chiếc An-124, đã vận chuyển 800 tấn hàng hóa cho các chiến dịch viện trợ nhân đạo tại Iraq. An-225 cũng đã được chính phủ Mỹ ký hợp đồng vận chuyển các thiết bị quân sự tới Trung Đông hỗ trợ cho các lực lượng Liên quân. Vào ngày 25 tháng 2, Antonov chính thức tuyên bố trên Twitter rằng họ không có thông tin chính xác về tình trạng hiện tại của máy bay. Ngày 27 tháng 2, một số bức ảnh chưa được xác nhận đã được đăng trên Twitter về chiếc máy bay đang bốc cháy và có thể bị phá hủy trong nhà chứa của nó tại Sân bay Hostomel.
Dùng làm bệ phóng
Hiện công việc thiết kế để biến chiếc máy bay này thành một hệ thống phóng trên không cho các chương trình vũ trụ tương lai đang được tiến hành. Một trong những dự án nhiều hứa hẹn nhất là hệ thống vũ trụ đa mục đích MAKS liên doanh giữa Nga/Ukraine.
;An-225 :Phiên bản không có cửa nâng hạ hàng hóa phía sau. Có một chiếc được chế tạo, chiếc thứ hai chưa hoàn thành.
;An-225-100 :Tên định danh dành cho An-225 sau khi trải qua hiện đại hóa vào năm 2000. Các nâng cấp gồm có hệ thống cảnh báo va chạm máy bay, thiết bị liên lạc và định vị cải tiến cũng như tính năng giảm tiếng ồn. Ngoài ra, còn có một thiết kế thay thế cho AKS là sử dụng thân máy bay hoàn toàn mới, mỗi thân có một đuôi riêng. phải
Đặc điểm tổng quát
- Phi đoàn: 6 người
- Trọng tải: 250.000 kg (550.000 lb)
- Kích thước cửa: 440 x 640 cm (14.4 x 21.0 ft)
- Chiều dài: 84 m (275.6 ft)
- Sải cánh: 88.40 m (290 ft 2 in)
- Chiều cao: 18.1 m (59.3 ft)
- Diện tích cánh: 905.0 m² (9.743,7 ft²)
- Trọng lượng rỗng: 175.000 kg (385.800 lb)
- Trọng lượng cất cánh: n/a
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 600.000 kg (1.322.773 lb)
- Động cơ: 6× động cơ phản lực cánh quạt đẩy ZMKB Progress D-18, 229 kN (51.600 lbf) mỗi chiếc
- Quãng đường cất cánh: 3.500 m (11.500 ft) với trọng lượng tải tối đa
Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 850 km/h (460 knots, 530 mph)
- Tốc độ hành trình: 750 km/h (400 knots, 465 mph)
- Tầm bay: Tối đa nhiên liệu: 14.000 km (8.700 mi) Tối đa trọng tải: 4.000 km (2.500 mi)
- Trần bay: 10.000 m (33.000 ft)
- Vận tốc lên cao: (480m/1min)
- Lực nâng của cánh: 662.9 kg/m² (135.5 lb/ft²)
- Lực đẩy/trọng lượng: 0.234