✨Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam)

Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam)

Viện Ngôn ngữ học (tên tiếng Anh: Institute of Linguistics) là một viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Viện có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và ứng dụng ngôn ngữ của tiếng Việt, của các ngôn ngữ dân tộc ít người và các ngoại ngữ ở Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước; tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về ngôn ngữ học; tham gia phát triển nguồn nhân lực của cả nước.

Lịch sử

Viện được thành lập ngày 14 tháng 5 năm 1968 theo nghị định số 59/CP ngày 14 tháng 5 năm 1968 của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở Tổ Ngôn ngữ học thuộc Viện Văn học và Tổ Thuật ngữ khoa học trực thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Khi mới thành lập, Viện Ngôn ngữ học chỉ có Tổ Ngôn ngữ học và Tổ Thuật ngữ khoa học. Cho đến nay, Viện đã hình thành và xây dựng nên các phòng nghiên cứu khoa học theo các chuyên ngành của ngôn ngữ học và các phòng phục vụ nghiên cứu khoa học.

Nhiệm vụ

Trình Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.

Nghiên cứu cơ bản về ngôn ngữ học.

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tiếng Việt, ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, ngôn ngữ các nước trong khu vực và các ngôn ngữ khác trên thế giới.

Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực ngôn ngữ học, thực hiện đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật, tham gia phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Khoa học xã hội Việt Nam và các cơ quan khác.

Theo chức năng, tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các công trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở các Bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Thực hiện các tư vấn khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện.

Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành.

Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học, phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học, truyền bá các kiến thức khoa học tới quảng đại quần chúng.

Quản lý về tổ chức, bộ máy, biên chế, tài chính và kinh phí của Viện theo các quy định, chế độ của Nhà nước và của Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Trụ sở chính

Trụ sở Viện Ngôn ngữ học tại số 9 Kim Mã Thượng, Ba Đình, Hà Nội (kể từ tháng 11/2008) Viện Ngôn ngữ học đã có 3 lần thay đổi trụ sở làm việc. Trước năm 2005, Viện Ngôn ngữ học có trụ sở tại 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó, trụ sở được chuyển về số 36 Hàng Chuối, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Trụ sở chính hiện nay là số 9 phố Kim Mã Thượng, quận Ba Đình, Hà Nội (kể từ tháng 11 năm 2008).

Một số thành tựu

Ngay từ khi thành lập, Viện đã tập trung triển khai nghiên cứu các bình diện khác nhau của tiếng Việt như: từ vựng-ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ âm, từ điển, các vùng phương ngữ của tiếng Việt; điều tra khảo sát có định hướng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam; nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ gắn với đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu của thực tế, v.v.

Năm 1975, tập I của Từ điển tiếng Việt phổ thông ra đời, là phần mở đầu cho một cuốn từ điển tiếng Việt cỡ vừa được biên soạn theo phương pháp mới, với cấu trúc mục từ nhiều tầng đa dạng, phản ánh được tính hệ thống của từ vựng. Các ví dụ được chọn lọc kĩ, có chú thích nguồn trích dẫn, đảm bảo độ tin cậy cho người sử dụng.

Năm 1988, Từ điển tiếng Việt với hơn 36 ngàn mục từ, do giáo sư Hoàng Phê chủ biên đã được xuất bản, chính thức đến với người dùng. Ngay từ đợt in đầu tiên, cuốn từ điển đã được xã hội hoan nghênh và đón nhận với một thái độ rất trân trọng, tin tưởng. Đây là cuốn từ điển có tính chất chuẩn, được giới nghiên cứu và người sử dụng đánh giá là có uy tín hơn cả trong giai đoạn hiện nay.

Toàn cảnh trụ sở Viện Ngôn ngữ học

Kể từ lần xuất bản thứ nhất, đến nay cuốn từ điển này đã được tái bản chín lần, trong đó có hai lần (các năm 1992 và 2000) tái bản có sửa chữa bổ sung; đạt con số phát hành kỉ lục đến hơn một trăm ngàn bản.

Sau khi hoàn thành việc biên soạn cuốn từ điển tiếng Việt, công tác nghiên cứu và biên soạn từ điển ở Viện đã được đẩy lên một bước mới. Một loạt từ điển các loại đã được biên soạn, phục vụ các nhu cầu tra cứu khác nhau. Đó là các quyển: Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng (1991), Từ điển thành ngữ Việt Nam (1993), Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán (1994), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt (1995), Từ điển từ láy tiếng Việt (1995), Từ điển đồng âm tiếng Việt (2001), Từ điển từ mới tiếng Việt (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông (2002), v.v.

Bên cạnh việc biên soạn từ điển tiếng Việt các loại, Viện cũng rất chú trọng đến việc biên soạn các loại từ điển song ngữ. Mặc dù cán bộ chuyên về ngoại ngữ của Viện không nhiều nhưng Viện đã làm tốt công việc đứng ra tổ chức, tập hợp lực lượng các cán bộ có năng lực để biên soạn và xuất bản từ điển song ngữ và đa ngữ các loại như: Thuật ngữ ngôn ngữ học Nga Việt (1969), Thuật ngữ mỹ thuật Pháp Việt, Việt Pháp (1970), Từ điển thuật ngữ thư viện học Nga-Anh-Pháp-Việt, Từ điển Anh Việt (1975), Từ điển thuật ngữ triết học chính trị Nga-Pháp-Việt, Từ điển thuật ngữ khoa học xã hội Nga-Pháp-Việt (1979), Từ điển Việt Anh (1987), Từ điển Pháp Việt (1992), Từ điển Việt Pháp (1992), Từ điển Anh Việt (2000), Từ điển Pháp Việt (2001), v.v.

Về nghiên cứu vốn từ ngữ tiếng Việt, Viện đã chủ trương dựa trên cơ sở lý luận về từ vựng học của thế giới, áp dụng vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của tiếng Việt, đồng thời chú trọng đến những đặc trưng riêng của từ ngữ tiếng Việt, từ đó làm sáng tỏ những đặc điểm của từ ngữ tiếng Việt, góp phần vào công cuộc chuẩn hoá tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bảo vệ và phát triển tiếng Việt. Bên cạnh những thành tựu về nghiên cứu từ và cấu tạo từ tiếng Việt, trong mấy chục năm qua, Viện đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chuẩn hoá và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt .

Đào tạo

Là một trong những cơ sở đầu tiên của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) được công nhận là cơ sở đào tạo NCS, từ khoá đào tạo thứ nhất (1983) đến nay, Viện ngôn ngữ học có 4 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ gồm: Lý luận ngôn ngữ, mã số 62.22.01.01 Ngôn ngữ học ứng dụng, mã số 62.22.01.05 Việt ngữ học, mã số 62.22.01.20 Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, mã số 62.22.01.25

Ngoài ra, Trung tâm Phổ biến và giảng dạy Ngôn ngữ của Viện là một địa chỉ giảng dạy và học tập tiếng Việt có uy tín dành cho sinh viên ngoại quốc có nhu cầu học tiếng Việt (http://tgn.edu.vn ).

Trung tâm Phục hồi chức năng ngôn ngữ của Viện tập trung vào việc nghiên cứu và trị liệu các bệnh lý liên quan đến ngôn ngữ.

Tạp chí Ngôn ngữ

Tạp chí Ngôn ngữ là ấn phẩm chuyên ngành của Viện, xuất bản lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1969. Đây là nơi công bố những kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về tiếng Việt, các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam; các ngôn ngữ thuộc khu vực Đông Nam Á và các ngôn ngữ phổ biến trên thế giới; trao đổi và thảo luận những vấn đề lý luận và ứng dụng ngôn ngữ học, v.v.

Tạp chí Ngôn ngữ là ấn phẩm định kì 1 năm 4 số, từ 1998 tăng lên 6 số; hiện nay 1 năm 12 số trong đó có những số chuyên đề phục vụ cho nhà trường.

Tính đến tháng 2 năm 2011, tạp chí "Ngôn ngữ" đã ra được 261 số.

Tặng thưởng

Viện Ngôn ngữ học đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng nhì năm 1988, huân chương Lao động hạng nhất năm 1998.

Nhiều cán bộ của Viện đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng những phần thưởng cao quý như: GS Hoàng Phê và GS Lê Khả Kế, - huân chương Lao động hạng nhất, năm 1989; GS Hoàng Tuệ, - huân chương Lao động hạng nhất năm 1997, huân chương Độc lập hạng ba năm 1999, GS.TS Hoàng Văn Hành và PGS.TS Lê Xuân Thại, - huân chương Lao động Hạng hai năm 2009, GS.TS Nguyễn Đức Tồn, - Huân chương Lao động hạng hai năm 2010 v.v.

GS Hoàng Tuệ, GS Lê Khả Kế, GS Nguyễn Kim Thản, và tập thể các tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt được trao tặng giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2000.

Tạp chí Ngôn ngữ của Viện đã được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì (1985) và Huân chương Lao động hạng nhất (2000).

Các thế hệ lãnh đạo

  • GS Nguyễn Kim Thản (1927-1995): Phó Viện trưởng phụ trách (1969-1976)
  • GS Hoàng Tuệ (1921 - 1999): Viện trưởng (1977 - 1983)
  • GS.TS Hoàng Văn Hành (1934-2003): Viện trưởng (1983 - 1995)
  • GS.TSKH Lý Toàn Thắng (s.1947): Viện trưởng (1995 - 2007)
  • GS.TS Nguyễn Đức Tồn (s.1952): Viện trưởng (2008 - 2012)
  • GS.TS Nguyễn Văn Hiệp (s.1964): Viện trưởng (từ 2012)

Bê bối

Đạo văn

Cựu viện trưởng Nguyễn Đức Tồn từng bị TS Nguyễn Thúy Khanh – nguyên Trưởng Phòng Từ điển học, Viện Ngôn ngữ, tố cáo đạo văn. GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cũng cho biết công trình nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Đức Tồn từng đưa đi xét dự Giải thưởng Hồ Chí Minh có nội dung đạo văn trong sách của ông đã xuất bản trước đó.

Cơ cấu tổ chức

Hiện tại, Viện có 7 phòng chuyên môn, 3 phòng và trung tâm ứng dụng và phục vụ nghiên cứu.

Viện trưởng: GS.TS Nguyễn Văn Hiệp

Phó Viện trưởng:

  • PGS.TS. Nguyễn Hữu Hoành

Các phòng nghiên cứu khoa học(06)

Phòng Từ vựng Ngữ pháp

Phòng Ngữ âm học

Phòng Ngôn ngữ học Xã hội

Phòng Ngôn ngữ học ứng dụng

Phòng Phương ngữ học và Lịch sử tiếng Việt

Phòng nghiên cứu Ngôn ngữ các Dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Các phòng, trung tâm ứng dụng và phục vụ nghiên cứu khoa học(03)

Trung tâm Giảng dạy và Trị liệu ngôn ngữ

Thư viện

Các phòng giúp Viện trưởng (02)

Phòng Quản lý khoa học và Đào tạo

Phòng Hành chính - Tổng hợp

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Viện Ngôn ngữ học** (tên tiếng Anh: _Institute of Linguistics_) là một viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Viện có chức năng nghiên cứu
**_Từ điển tiếng Việt_** còn gọi là **_Từ điển Hoàng Phê_** là công trình từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, cơ quan nghiên cứu ngôn ngữ hàng đầu của Việt Nam, do
phải|Bản đồ ngôn ngữ của châu Âu (đơn giản hóa). **Ngôn ngữ học châu Âu** là ngành ngôn ngữ học khá mới mẻ, nghiên cứu về các ngôn ngữ tại châu Âu. Tuy nhiên, ở
**Ngôn ngữ học xã hộ**i (_Sociolinguistics_) là ngành học nghiên cứu ảnh hưởng của bất kỳ và tất cả các lĩnh vực xã hội, bao gồm các khái niệm văn hóa, kỳ vọng và ngữ
**Ngôn ngữ học ứng dụng** là một nhánh của ngành ngôn ngữ học, tập trung vào việc xác định, điều tra và cung cấp các giải pháp cho các vấn đề có liên quan đến
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Hoàng Tuệ** (1922-1999) là một nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Ông nguyên là viện trưởng Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam). ## Cuộc đời Hoàng Tuệ sinh ngày 20 tháng 9 năm 1922 tại
**Hoàng Phê** (ngày 5 tháng 7 năm Kỷ Mùi, 1919 - 29 tháng 1 năm Ất Dậu, 2005) là Giáo sư, một nhà từ điển học, chuyên gia về chính tả tiếng Việt. ## Tiểu
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **VNU-USSH**) là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trụ sở chính của Trường đặt tại số
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
nhỏ|Tấm biển tại [[Ung Hòa cung tại Bắc Kinh, Trung Quốc, từ phải sang trái viết bằng tiếng Mãn, tiếng Hán, tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ.]] nhỏ|phải|Biểu trưng của chính quyền Liên bang [[Thụy Sĩ,
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
**Nguyễn Tài Cẩn** (2 tháng 5 năm 1926 – 25 tháng 2 năm 2011) là một trong những chuyên gia đầu ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Ông đã có công lớn trong việc xây
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 **Khoa bảng Việt Nam** là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí
**Nguồn gốc ngôn ngữ** và quan hệ của ngôn ngữ đối với tiến hóa của loài người là chủ đề học thuật đã được bàn luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù vậy, ta vẫn
Việt Nam không công nhận hôn nhân cùng giới, kết hợp dân sự, chung sống có đăng ký hay bất kỳ hình thức tương tự nào khác cho các cặp đôi cùng giới. Hiến pháp
**Bác ngữ học** (tiếng Anh: _philology_), có khi còn được gọi là **văn hiến học** (文獻學), **ngữ văn học** (語文學), hoặc **văn tự học** (文字學) theo cách gọi ở một số nước Đông Á, là
**Xử lý ngôn ngữ tự nhiên** (_natural language processing_ - NLP) là một nhánh của trí tuệ nhân tạo tập trung vào các ứng dụng trên ngôn ngữ của con người. Trong trí tuệ nhân
**Trương Văn Chình** (1908-1983) tức **Trình Quốc Quang** là một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam, và là đại biểu Quốc hội khóa I của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. ## Xuất
**Thuyết tương đối ngôn ngữ** (), hay **giả thuyết Sapir-Whorf**, cho rằng cấu trúc ngôn ngữ ảnh hưởng đến tư duy và khả năng nhận biết thế giới xung quanh. Đó là, ngôn ngữ quyết
**Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam** (tên quốc tế: , **VASS**) là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong lịch sử của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam. Trong bài cũng đề cập đến
"**Ngôn ngữ là phương ngữ kèm với lục quân và hải quân**" (_A language is a dialect with an army and navy_) là một câu dí dỏm về sự tùy ý của sự phân biệt
thumb|Phân bố năm 2005 của các ngữ hệ chính trên thế giới (vài trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý, không dựa trên "di truyền"). Các nhánh con của các ngữ hệ được lược
**Chữ Thái Việt Nam** (tiếng Thái Đen: , phát âm là "Xư Tay") (; ; , đọc là _ặc-xỏn Thay-đằm_) là chữ viết thuộc hệ thống chữ Brahmic được người Thái Đen ở Việt Nam
**Hoàng Xuân Việt** tên thật là **Nguyễn Tùng Nhân** (sinh 13 tháng 8 năm 1928 tại Vĩnh Thành, Bến Tre, mất ngày 20 tháng 7 năm 2014) là một học giả, nhà văn, dịch giả,
Bài sơ lược sau đây cung cấp một cái nhìn tổng quan cũng như hướng dẫn chủ đề về Việt Nam: thumb|Vị trí của [[Việt Nam]] thumb|Bản đồ chạm nổi có thể phóng to của
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
thumb|thumbtime=5|_Preservation of the Sign Language_ (1913) nhỏ|Juan Pablo Bonet, _Reducción de las letras y arte para enseñar a hablar a los mudos_ (Madrid, 1620). **Ngôn ngữ ký hiệu** hay **ngôn ngữ dấu hiệu**, **thủ ngữ**
Giáo sư Tiến sĩ **Phạm Đức Dương** (21 tháng 10 năm 1930 - 8 tháng 12 năm 2013) là một chuyên gia về Ngôn ngữ dân tộc và Đông Nam Á học ở Việt Nam.
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Cao Xuân Hạo** (30 tháng 7 năm 1930 – 16 tháng 10 năm 2007) là một nhà ngôn ngữ học người Việt với nhiều đóng góp trong việc định hình phương pháp phân tích cấu
Giáo sư Lê Khả Kế (1918-2000) là một trong những nhà từ điển học hàng đầu của Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Khả Kế** sinh ra và lớn lên tại làng Hữu Bằng, nay
[[Kim Vân Kiều là tác phẩm được thể hiện dưới hình thức mạn họa nhiều nhất xưa nay tại Việt Nam và chưa có dấu hiệu ngưng lại.]] **Truyện tranh Việt Nam** () là thuật
**_Vua tiếng Việt_** là chương trình trò chơi truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất. Đây là chương trình nhằm tìm hiểu và khám phá sự phong phú, giàu có và thâm
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
thumb|**[[Phép tính lambda** là một hệ thống hình thức để định nghĩa hàm, ứng dụng hàm và đệ quy được Alonzo Church đề xuất vào những năm 193x.]] **Lý thuyết ngôn ngữ lập trình** (thường
thumb|right|Hai người phụ nữ nói chuyện với nhau. Chú ý người phụ nữ mặc áo xanh khép một cánh tay co sát cơ thể, trong khi người kia sử dụng tay mình để biểu thị,
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Viện hàn lâm Ngôn ngữ và Văn học Na Uy** () là một viện nghiên cứu ngôn ngữ và văn học của Na Uy. Viện có nhiệm vụ "tạo lập yếu tố ổn định trong
**Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Việt Nam** là trường Cao đẳng đào tạo về ngoại ngữ tại Việt Nam được thành lập năm 2008. Mã trường CDD 2105 ## Lịch sử *
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
nhỏ|Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa hai người tại [[Tây An, Trung Quốc.]] **Giao tiếp phi ngôn ngữ** giữa con người là sự giao tiếp bằng cách gửi và nhận những tín hiệu phi ngôn
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Kiểm duyệt ở Việt Nam** rất phổ biến và được thực hiện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam với mọi loại phuơng tiện truyền thông – báo chí, văn học, tác phẩm nghệ thuật, âm