✨Tupolev Tu-16

Tupolev Tu-16

Tupolev Tu-16 (Tên hiệu NATO: Badger) là một máy bay ném bom phản lực cận âm hai động cơ được Liên bang Xô viết sử dụng. Nó đã hoạt động hơn 50 năm, và với tên định danh Xian H-6, vẫn đang hoạt động trong Không quân Trung Quốc.

Phát triển

nhỏ|trái|Máy bay ném bom Tu-16 tại Bảo tàng Monino. Cuối thập niên 1940 Liên bang Xô viết nỗ lực hết sức nhằm theo kịp Hoa Kỳ trong khả năng ném bom chiến lược. Chiếc máy bay ném bom tầm xa duy nhất thời ấy của Liên Xô là chiếc Tu-4 'Bull' của Tupolev, một phiên bản thay đổi từ chiếc B-29 Superfortress của Mỹ. Việc phát triển động cơ tuốc bin phản lực Mikulin AM-3 siêu mạnh đã dẫn tới khả năng chế tạo một chiếc máy bay ném bom phản lực lớn.

Phòng thiết kế Tupolev đã bắt đầu làm việc với các nguyên mẫu Tu-88 ("Aircraft N") năm 1950. Chiếc Tu-88 lần đầu tiên cất cánh ngày 27 Tháng 4 năm 1952. Sau khi chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với chiếc Ilyushin Il-46, nó đã được phê chuẩn chế tạo tháng 12 năm 1952. Những chiếc máy bay ném bom chế tạo hàng loạt đầu tiên đi vào phục vụ trong Không quân Xô viết năm 1954, được đặt tên định danh Tu-16. Nó được NATO đặt tên hiệu là 'Badger-A'.

nhỏ|Góc nhìn từ phía sau một chiếc Tu-16 Badger biến thể trinh sát (có lẽ là Tu-16R). Chiếc máy bay này có cánh cụp mới, lớn hơn và hai động cơ tuốc bin phản lực Mikulin AM-3 lớn ở gốc cánh. Nó có thể mang một quả bom thông thường loại lớn FAB-9000 9.000-kg (19.800 lb) (phiên bản Nga tương tự như loại Bom Grand Slam) của người Anh hay nhiều vũ khí hạt nhân với tầm hoạt động khoảng 4.800 km (3.000 dặm).

Dù ban đầu Tu-16 hoạt động như một máy bay ném bom rơi tự do ở độ cao lớn, giữa thập niên 1950 nó đã được trang bị để mang các tên lửa hành trình Xô viết. Phiên bản Tu-16KS-1 ('Badger-B') có thể mang các tên lửa AS-1 'Kennel' với bán kính chiến đấu 1.800 km (1.125 dặm). Những vụ khí rất lớn đó được chế tạo theo hình dạng khí động học tương tự chiếc máy bay chiến đấu MiG-15 'Fagot', có thể lắp đầu vũ khí thông thường hay vũ khí hạt nhân, có tầm hoạt động khoảng 140 km (90 dặm). Chúng được dự định chủ yếu để tấn công các tàu sân bay của Hải quân Mỹ và các con tàu lớn khác. Những chiếc Tu-16 sau này đã được chuyển đổi để có thể mang các loại tên lửa mới, hiện đại hơn, và tên định danh của chúng cũng được thay đổi nhiều lần.

nhỏ|Những chiếc Tu-16 của Ai Cập. Là một thiết kế đa dụng, Tu-16 được chế tạo theo nhiều biến thể chuyên biệt cho trinh sát, giám sát biển, thu thập thông tin tình báo điện tử (ELINT), và chiến tranh điện tử (ECM). Tổng cộng 1507 chiếc máy bay đã được chế tạo tại ba nhà máy ở Liên Xô, trong giai đoạn 1954-1962. Một phiên bản dân sự, chiếc Tu-104 'Camel', đã hoạt động chở khách trong Aeroflot. Tu-16 cũng đã được xuất khẩu cho Ai Cập, Indonesia, và Iraq. Nó tiếp tục được sử dụng trong các lực lượng không quân và không quân Hải quân Xô viết cũng như nước Nga sau này cho tới tận năm 1993.

Việc giao hàng Tu-16 cho Trung Quốc bắt đầu năm 1958, và Xi'an Aircraft Industrial Corporation (XAC) đã sản xuất một phiên bản của nó theo tên định danh Trung Quốc Xian H-6. Hơn 120 chiếc loại đó vẫn đang hoạt động.

Biến thể

Trong số những biến thể sản xuất chính của Badger có các loại máy bay ném bom Tu-16 và Tu-16A; máy bay mang tên lửa Tu-16KS và Tu-16K-10; Tu-16SPS, "Elka", và Tu-16Ye ECM; Tu-16R trinh sát; và Tu-16T ném bom thả thủy lôi; các loại khác được chế tạo bằng cách chuyển đổi. Những chiếc máy bay riêng lẻ có thể được sửa đổi nhiều lần, tên định danh cũng thay đổi theo, đặc biệt khi chúng trở thành máy bay mang tên lửa.

  • Badger A (Tu-16) - Kiểu cấu hình căn bản này của máy bay ném bom Tu-16 đã được triển khai năm 1954 để thay thế Tu-4. Nhiều phiên bản sửa đổi của biến thể này đã được chế tạo, tất cả chúng đều được phương Tây gọi là Badger A. Tu-16A - Những chiếc Tu-16 sửa đổi được thiết kế để mang bom hạt nhân, một trong những phiên bản chính, với 453 chiếc được chế tạo. Nhiều chiếc trong số này sau đó đã được chuyển đổi thành các biến thể khác. Tu-16Z - Một phiên bản chuyên biệt ban đầu của Tu-16 hoạt động như Máy bay tiếp dầu trên không, dù chúng vẫn còn khả năng ném bom tầm trung. Tu-16G (Tu-104G) - Phiên bản chuyển thư nhanh, phiên bản huấn luyện phi công của Aeroflot. Tu-16N - Một phiên bản chuyên biệt tiếp dầu trên không cho những chiếc máy bay ném bom Tu-22/Tu-22M, với hệ thống dò và phao. Đi vào hoạt động năm 1963. Máy bay tương tự Tu-16NN được chuyển đổi từ Tu-16Z. Tu-16T - Phiên bản sản xuất hạn chế cho tấn công trên biển (thả thủy lôi), phục vụ trong Không quân Hải quân Xô viết, và mang thủy lôi, mìn và bom chống tàu ngầm. 76 chiếc đã được chế tạo và một số chiếc khác được chuyển đổi. Tất cả chúng sau này đều được chuyển đổi theo cấu hình Tu-16S. Tu-16S - Một phiên bản mang xuồng cứu sinh được sử dụng cho các chiến dịch tìm kiếm và cứu hộ. Tu-16Ye** - Những chiếc máy bay này được trang bị nhiều thiết bị chiến tranh điện tử và trinh sát điện tử (ELINT).
  • Badger B (Tu-16KS) - Biến thể được thiết kế để trở thành bệ phóng cho hai loại tên lửa AS-1 Kennel/KS-1 Kometa. 107 chiếc đã được chế tạo trong giai đoạn 1954-1958, phục vụ trong Không quân Hải quân Xô viết, Ai Cập và Indonesia. Những chiếc của Xô viết sau này đã được chuyển đổi tương thích với các loại tên lửa mới hơn.

nhỏ|phải|Tu-16K-10-26 Badger C

  • Badger C (Tu-16K-10) - Một biến thể khác cho Hải quân, những chiếc thuộc phiên bản này có thể mang một tên lửa chống tàu AS-2 Kipper/K-10S. 216 chiếc đã được chế tạo trong giai đoạn 1958-1963. Nó khác với các biến thể khác bởi có một radar phía mũi. Một phiên bản phát triển thêm, chiếc Tu-16K-10-26, mang một tên lửa K-10S và hai tên lửa KSR-2 hay KSR-5 (phức hợp tên lửa K-26). Một số chiếc sau này đã được chuyển đổi mang ELINT.
  • Badger D (Tu-16RM-1) - Phiên bản trinh sát biển với thiết bị ELINT; 23 chiếc được chuyển đổi từ Tu-16K-10. Nó vẫn giữ radar phía mũi và có thể dẫn đường cho các tên lửa K-10S, được phóng đi từ các máy bay khác, tới mục tiêu.
  • Badger E (Tu-16R) - Phiên bản trinh sát với thiết bị ELINT, chủ yếu dùng trong trinh sát biển. Nó có thể dẫn đường cho các tên lửa KS. Tu-16RM-2 - Tu-16R chuyển đổi, hoạt động trong Không quân Hải quân, nó có thể dẫn đường các tên lửa KSR-2. Tu-16KRM - Bệ phóng cho máy bay không người lái (một biến thể của Tu-16K-26).
  • Badger F (Tu-16RM-2) - Một phiên bản trinh sát khác dựa trên -16R/RM nhưng có thêm thiết bị ELINT bên ngoài. nhỏ|phải|Tu-16 Badger G với tên lửa KSR-5
  • Badger G (Tu-16K/Tu-16KSR) - Hoạt động trong Không quân hải quân, chúng được chuyển đổi từ các model trước đó. Những chiếc máy bay này được thiết kế để mang bom ở khoang trong ngoài các tên lửa không đối đất ở các mấu cứng bên ngoài, như AS-5 Kelt và AS-6 Kingfish. Có nhiều biến thể, với nhiệm vụ hoặc mang phức hợp tên lửa (K-11, K-16 và K-26) hay các tên lửa thuộc các phức hợp đó (KSR-11, KSR-2 và KSR-5). Sau nhiều lần chuyển đổi tiếp, tên định danh cũng được thay đổi. Các biến thể chính: Tu-16KSR-2 - Mang phức hợp K-16 (hai tên lửa KSR-2). Được sử dụng từ năm 1962. Máy bay tương tự, được chuyển đổi từ các biến thể khác, được định danh Tu-16K-16. Tu-16K-11-16 - Mang phức hợp K-16 (các tên lửa KSR-2) hay phức hợp K-11 (hai tên lửa KSR-11 chống radar). Được sử dụng từ 1962. Máy bay tương tự được đặt tên định danh Tu-16KSR-2-11. Hơn 440 chiếc Tu-16 có thể mang phức hợp K-16 hay K-11. nhỏ|phải|Tu-16K-26 hay Tu-16KSR-2-11-16, với các tên lửa KSR-5 dưới cánh Tu-16K-26 - Mang phức hợp K-26 (hai tên lửa KSR-5), vẫn có khả năng mang KSR-2 và 11 tên lửa. Được sử dụng từ năm 1969. Máy bay tương tự được đặt tên định danh Tu-16KSR-2-5-11 hay Tu-16KSR-2-5 (không có khả năng mang KSR-11). Hơn 240 chiếc Tu-16 có thể mang phức hợp K-26. Tu-16K-26P - Mang các tên lửa K-26P (các tên lửa chống radar KSR-5P, cũng như KSR-5, 2 hay 11).
  • Badger H (Tu-16 Elka) - Được thiết kế cho chiến tranh điện tử tầm xa và hỗ trợ phản công điện tử.
  • Badger J (Tu-16P Buket) - Một biến thể chiến tranh điện tử khác được chế tạo theo cấu hình như một máy bay hộ tống tấn công ECM.
  • Badger K (Tu-16Ye) - Được cho là một phiên bản theo cấu hình Badger F có khả năng ELINT nâng cấp.
  • Badger L (Tu-16P) - Một phiên bản của Badger J với các hệ thống hiện đại hơn và được sử dụng với vai trò ELINT.

Bên sử dụng

Các bên sử dụng Tu-16/[[Xian H-6|H-6 hiện thời màu đỏ nhạt, các bên từng sử dụng màu đỏ đậm]]

    • 30 chiếc được thừa kế từ Liên bang Xô viết. Dừng hoạt động năm 1995.
    • 10 chiếc được thừa kế từ Liên bang Xô viết. Dừng hoạt động năm 1995.
    • 121 chiếc được thừa kế sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ , ngừng hoạt động năm 1995.
    • Một số chiếc Tu-16 được cung cấp năm 1959; sau này được chế tạo theo giấy phép với tên định danh Xian H-6
    • 25 chiếc Tu-16KS-1 được mua năm 1961, đã được dùng khi chuẩn bị cho Chiến dịch TRIKORA năm 1962 (chiếm Tây New Guinea từ Hà Lan) ở Tây New Guinea (hiện là Papua và Papua Barat). Tất cả chúng đều được dự định sử dụng tấn công Tàu sân bay Hà Lan Karel Doorman đang hoạt động gần Irian Barat. 14 chiếc thuộc Skadron 41 và 12 chiếc thuộc Skadron 42. Tất cả chúng đều đóng tại Căn cứ Không quân Iswahjudi, Madiun, Đông Java. Toàn bộ đã ngừng hoạt động năm 1969. Không còn phục vụ từ năm 1970
    • Tám chiếc Tu-16, sáu Tu-16KSR-2-11. Cũng sử dụng cả H-6. Tất cả đều bị phá hủy trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991.
    • 18 chiếc được thừa kế từ Liên bang Xô viết.

Đặc điểm kỹ thuật (Tu-16)

Hình chiếu Tupolev Tu-16.

Đặc điểm chung

  • Phi đội: 4 người
  • Chiều dài: 34.80 m (114 ft 2 in)
  • Sải cánh: 33.00 m (108 ft 3 in)
  • Chiều cao: 10.36 m (34 ft 0 in)
  • Diện tích cánh: 165 m² (1.775 ft²)
  • Trọng lượng rỗng: 37.200 kg (82.000 lb)
  • Trọng lượng chất tải: 76.000 kg (168,00 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 79.000 kg (174.000 lb)
  • Động cơ: 2 động cơ tuốc bin phản lực Mikulin AM-3M-500, 93.2 kN (20.900 lbf) mỗi chiếc

Đặc điểm bay

  • Tốc độ tối đa: 1.050 km/h (656 mph)
  • Tầm hoạt động: 7.200 km (4.500 mi)
  • Trần bay: 12.800 m (42.000 ft)
  • Tốc độ lên: N/A
  • Chất tải: 460 kg/m² (94 lb/ft²)
  • Lực đẩy/Trọng lượng: 0.24

Trang bị vũ khí

  • Súng: 6-7× Pháo 23 mm Nudelman-Rikhter NR-23, hai khẩu ở mỗi tháp ở bụng và lưng cùng tháp có người điều khiển ở đuôi, có thể lắp thêm ở đầu mũi
  • Bom: 9.000 kg (20.000 lb) vũ khí rơi tự do hay
  • Tên lửa: 1× tên lửa chống hạm Kh-10 (AS-2 'Kipper') lắp bán ngầm tại khoang bom hay 1× tên lửa chống hạm Kh-26 (AS-6 'Kingfish') dưới cánh
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tupolev Tu-16** (Tên hiệu NATO: **Badger**) là một máy bay ném bom phản lực cận âm hai động cơ được Liên bang Xô viết sử dụng. Nó đã hoạt động hơn 50 năm, và với
Tupolev **Tu-134** (tên hiệu NATO: **Crusty**) là một máy bay chở khách hai động cơ Liên Xô, tương tự như chiếc Douglas DC-9 của Mỹ. Là một trong những máy bay quan trọng nhất và
**Tupolev Tu-22** (Tên hiệu NATO **Blinder**) là một máy bay ném bom và trinh sát phản lực Xô viết. Tu-22 thường bị nhầm với Tu-22M, loại máy bay hiện đại hơn được phát triển từ
**Tupolev Tu-4** (Tên hiệu NATO: **Bull**) là một Máy bay ném bom chiến lược dùng động cơ piston của Liên Bang Xô Viết đã phục vụ trong Không quân Xô viết từ cuối thập niên
**Tupolev Tu-160**, biệt danh "Thiên Nga Trắng" là một máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, siêu thanh với thiết kế cánh cụp-cánh xòe, được thiết kế bởi Liên bang Xô viết. Nó là
**Tupolev Tu-154** () (tên hiệu NATO **Careless**) là một máy bay chở khách ba động cơ phản lực tầm trung của Liên Xô tương tự như chiếc Boeing 727 được thiết kế giữa những năm
nhỏ|248x248px|Tupolev Tu-22M3 **Tupolev Tu-22M** (Tên hiệu NATO "**Backfire**") là một máy bay ném bom tấn công trên biển, siêu thanh, cánh cụp cánh xoè tầm xa được phát triển tại Liên bang Xô viết. Tổng
**Tupolev Tu-95** (Tên hiệu NATO **Bear**) là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng và mang tên lửa hành trình thành công nhất và có thời gian phục vụ lâu nhất của Tupolev,
**Tupolev Tu-104** (Tên hiệu NATO: **Camel** - Lạc đà) là một máy bay chở khách tầm trung hai động cơ tuốc bin phản lực của Liên bang Xô viết. Sau chiếc de Havilland Comet của
**Tupolev Tu-2** (Tên khi phát triển **ANT-58** và **103**, Tên hiệu NATO **Bat**) là một _máy bay ném bom tốc độ cao ban ngày (SDB)/máy bay ném bom mặt trận (FB)_ hai động cơ nổi
**Tupolev Tu-144** (Tên hiệu NATO: Charger) là chiếc máy bay vận tải siêu thanh (SST) đầu tiên, được chế tạo dưới sự chỉ đạo của phòng thiết kế Tupolev Xô viết do Alexei Tupolev (1925–2001)
**Tupolev Tu-204** là một máy bay chở khách tầm trung hai động cơ của Nga có khả năng chở 212 hành khách. Được giới thiệu lần đầu năm 1989,được cho là sao chép với chiếc
nhỏ|A 334 tại [[Triển lãm hàng không MAKS, Moscow năm 2007]] **Tupolev Tu-334** là một máy bay chở khách tầm ngắn tới tầm trung Nga đang được phát triển để thay thế các loại Tu-134
nhỏ|Mô phỏng Tupolev Tu-444 khi nhìn từ trên xuống **Tupolev Tu-444** là một khái niệm về máy bay siêu thanh thương gia của công ty Tupolev Nga. Tupolev có nhiều kinh nghiệm trong việc phát
thumb|Tu-130 **Tu-130** là một cấu hình tên lửa liên lục địa ba tầng quỹ đạo bay dạng tàu lượn được thiết kế bởi phòng thiết kế Tupolev. ## Lịch sử Từ năm 1957, công việc
**Tupolev Tu-143** Reys (Flight hoặc Trip, ) là một loại máy bay trinh sát không người lái của Liên Xô, được trang bị cho Liên Xô và đồng minh của Liên Xô cuối thập niên
**Aleksey Andreyevich Tupolev** (tiếng Nga: Алексей Андреевич Туполев, 20 tháng 5 năm 1925-ngày 12 tháng 5 năm 2001) là một nhà thiết kế máy bay của Liên Xô chỉ huy sự phát triển của máy
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Tupolev TB-3** (Tiếng Nga: Тяжелый Бомбардировщик, Tyazholy Bombardirovschik, Máy bay ném bom hạng nặng, tên định danh dân sự **ANT-6**) là một máy bay ném bom hạng nặng đã được Không quân Xô viết triển
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1997, một máy bay quan sát Tupolev Tu-154M của Không quân Đức và một máy bay vận tải C-141B Starlifter của Không quân Hoa Kỳ đã bị phá hủy
**Tupolev TB-1** (tên phát triển là **ANT-4**) là một loại máy bay ném bom của Liên Xô, nó là máy bay cỡ lớn đầu tiên của Liên Xô được làm hoàn toàn từ kim loại.
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## T ### Tachikawa * Tachikawa Ki-9 * Tachikawa Ki-17 * Tachikawa Ki-36 * Tachikawa Ki-54 * Tachikawa Ki-55 * Tachikawa Ki-70 *
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay ném bom của Liên Xô, theo thứ tự trong bản báo cáo của NATO: * "Backfin" Tupolev Tu-98 * "Backfire" Tupolev Tu-22M * "Badger" Tupolev Tu-16 *
phải|[[Boeing B-52 Stratofortress|B-52 - máy bay ném bom chiến lược biết đến nhiều nhất]] **Máy bay ném bom chiến lược** là loại máy bay lớn được thiết kế với mục đích thả khối lượng bom
Boeing **B-29** _Superfortress_ là máy bay ném bom hạng nặng, 4 động cơ cánh quạt của Không lực Lục quân Hoa Kỳ (tiền thân của Không quân Hoa Kỳ), được sử dụng chủ yếu trong
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
## Máy bay cường kích * Ilyushin ** Ilyushin Il-2 "Sturmovik" ** Ilyushin Il-10 * MiG ** Mikoyan MiG-27 * Sukhoi ** Sukhoi Su-2 ** Sukhoi Su-7 ** Sukhoi Su-24 ** Sukhoi Su-25 * Yakovlev
**Máy bay chiến đấu** là một loại máy bay quân sự của lực lượng không quân có chức năng trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt các lực lượng đối phương. ## Phân loại
nhỏ|[[Boeing B-29 Superfortress|B-29 Superfortress]] nhỏ|[[Tupolev Tu-95]] **Máy bay ném bom hạng nặng** là một loại máy bay ném bom quân sự có kích thước lớn, mang được nhiều bom và tầm bay xa. Thuật ngữ
**Tên lửa chống tàu** (**tên lửa đối hạm**) là một loại tên lửa được thiết kế để chống lại các tàu trên mặt biển của hải quân. Hầu hết các tên lửa chống tàu là
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1952: ## Sự kiện ### Tháng 1 * 5 tháng 1 - Pan Am bắt đầu dịch vụ vận chuyển
**Hệ thống tên lửa Tor** (; ) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, phương tiện bay
**Chiến dịch Focus** (, _Mivtza Moked_) là một cuộc không kích mở màng của Israel khơi mào cho Chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967. Đôi khi chiến dịch này được truyền thông đề cập
Tu-16 'Badger-G' with KSR-5 under port wing Tu-16K with a missile under each wing **Raduga KSR-5** (tên ký hiệu của NATO **AS-6 Kingfish**) là một loại tên lửa chống tàu và tên lửa hành trình
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã phát triển và trang bị các vũ khí hủy diệt hàng loạt, gồm vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân. Trung Quốc đã tiến hành thử
**_Codename: Panzers – Cold War_** là một game chiến lược thời gian thực do hãng InnoGlow phát triển và Atari phát hành vào năm 2009. Một phần tiếp theo của _Codename: Panzers_ trước đây được
**Trung tâm nghiên cứu tên lửa vũ trụ Tiến bộ-Progress Rocket Space Centre** (), trước đây là **TsSKB-Progress** (), là một công ty cổ phần của Nga trực thuộc Roscosmos State Corporation có nhiệm vụ
**Raduga KS-1 Komet** (, tên ký hiệu của NATO: **Kennel**), cũng còn được gọi là **AS-1** và **KS-1** (крылатый снаряд - đạn tự hành có cánh) là một đạn tự hành không đối hải tầm
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1954: ## Các sự kiện ### Tháng 1 * 10 tháng 1 - Chuyến bay 781 BOAC, một chiếc de
**JSC Kuznetsov** () là một trong những nhà sản xuất động cơ máy bay lớn của Nga, ngoài ra JSC Kuznetsov cũng phát triển và chế tạo động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng cũng
thế=DC - 3 của Hàng Không Việt Nam tại sân bay Phú Quốc năm 1980|nhỏ|[[Douglas DC-3|DC - 3 của Hàng Không Việt Nam tại sân bay Phú Quốc năm 1980]] **Hãng hàng không Quốc gia
Dưới đây là danh sách các máy bay dân sự. Để xem danh sách đầy đủ các máy bay mà không phân biệt mục đích sử dụng, xem Danh sách máy bay. ## A *AASI
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay vận tải của Liên Xô, sắp xếp theo thứ tự bản báo cáo của NATO: * "Cab" Lisunov Li-2 * "Camber" Ilyushin Il-86 * "Camel" Tupolev Tu-104
thumb|Bức áp phích [[quảng cáo dịch vụ bưu phẩm hàng không hàng tuần từ Deutsche Lufthansa, Syndicato Condor và Deutsche Zeppelin Reederei của Đức vào thập niên 1930.]] **Hãng hàng không** là một công ty
**Không quân Liên bang Nga** (tiếng Nga: Военно-воздушные cилы России, chuyển tự: _Voyenno-vozdushnye sily Rossii_) là lực lượng Phòng không - Không quân cấp quân chủng của Nga. Hải quân Nga cũng có lực lượng
Tập đoàn **JSC Irkut Corporation** () () là một nhà sản xuất máy bay của Nga, có trụ sở đặt tại quận Aeroport, in the Aeroport District, Northern Administrative Okrug, Moskva, và được biết đến
300x300px|thumb| ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Otto Stich trở thành tổng thống Thụy Sĩ. **Hiệp ước thương mại tự do giữa México, Hoa Kỳ và Canada. *3 tháng 1: Irkutsk, Nga.
nhỏ|phải|Biểu tượng trên các máy bay của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Không quân Liên Xô chưa có các đơn vị được trang bị
**Mikoyan MiG-31** (tiếng Nga: МиГ-31) (tên ký hiệu của NATO: "Foxhound") (cáo săn chồn) là một máy bay tiêm kích đánh chặn siêu âm được phát triển để thay thế cho MiG-25 'Foxbat'. MiG-31 được
Danh sách này không tính đến các vụ máy bay chiến đấu theo các chủng loại tiêm kích, cường kích, ném bom, vận tải của lực lượng không quân của các bên tham chiến bị