✨Trọng trường Trái Đất

Trọng trường Trái Đất

thumb|right|Trọng trường Trái Đất do NASA thực hiện trong phi vụ thí nghiệm [[:en:Gravity Recovery and Climate Experiment|GRACE, thể hiện độ lệch với trọng trường lý thuyết của dạng trái đất làm trơn lý tưởng, vốn được gọi là ellipsoid Trái Đất. Màu đỏ là nơi trọng trường mạnh hơn giá trị tiêu chuẩn, còn màu lam là nơi yếu hơn.]] Trọng trường Trái Đất (Gravity of Earth), ký hiệu là g, đề cập đến gia tốc mà Trái Đất gây ra cho các đối tượng ở trên hoặc gần của bề mặt Trái Đất. Trong hệ đơn vị SI gia tốc này được đo bằng mét trên giây bình phương (ký hiệu (m/s2 hoặc m•s−2), hoặc tương đương với Newtons trên kilogram (N/kg hoặc N•kg−1). Nó có giá trị xấp xỉ 9,81 m/s2, tức là nếu bỏ qua ảnh hưởng của sức cản không khí, tốc độ của một vật rơi tự do gần bề mặt Trái Đất sẽ tăng thêm khoảng 9,81 m/s (32,2 ft/s) sau mỗi giây. Giá trị này đôi khi được gọi không chính thức là g nhỏ (ngược lại, các hằng số hấp dẫn G được gọi là G lớn).

Nghiên cứu trọng trường Trái Đất là một lĩnh vực của địa vật lý. Kết quả của nghiên cứu cũng áp dụng để miêu tả trọng trường tại các hành tinh, các thiên thể khác.

Trên thực tế, trọng lực Trái Đất thật sự phụ thuộc vào vị trí. Xét trên bề mặt Trái Đất, giá trị trung bình của trọng lực Trái Đất là 9.80665 m/s², với nhiều ký hiệu khác nhau, lần lượt là gn, ge (đôi khi là giá trị pháp tuyến xích đạo của Trái Đất, 9.78033 m/s2 ),g0, hoặc đơn giản là g.

Trọng lượng của một vật trên bề mặt Trái Đất là lực hướng xuống của vật đó, được đề cập ở Định Luật II Newton, hay F = ma (lực kéo = trọng lượng x gia tốc). Gia tốc trọng trường cũng góp phân vào gia tốc trọng lực, nhưng đối với các yếu tố khác, chẳng hạn như sự tự chuyển động của Trái Đất cũng đóng góp một phần vào và làm ảnh hưởng đến trọng lượng của vật. Trọng lực thường không bao gồm lực hút của Mặt Trời hay Mặt Trăng (liên quan đến hiện tượng thuỷ triều).

Sự thay đổi về độ lớn

Một hình cầu hoàn hảo không quay có mật độ khối đồng nhất, hoặc có mật độ chỉ thay đổi theo khoảng cách từ tâm (đối xứng hình cầu), sẽ tạo ra một trường trọng lực đồng nhất về độ lớn tại mọi điểm trên bề mặt của nó. Trái Đất tuy nhiên luôn luôn xoay quay trục và không phải là một hình cầu đối xứng vì sự lệch nhau của hai cực trên Trái Đất nên được xem là hình cầu dẹt. Bởi thế nên trọng lực Trái Đất tại mọi vị trí trên bề mặt của nó là khác nhau.

Trọng lực trên bề mặt Trái Đất dao động vào khoảng 0,7%, từ 9,7639 m/s2 tại núi Nevado Huascarán ở Peru đến 9,8337 m/s2 tại bề mặt của biển Bắc Băng Dương. Ở những thành phố lớn nó dao động từ 9,7760 tại Kuala Lumpur, thành phố Mexicô và Singapore cho đến 9,825 tại Oslo và Helsinki.

Giá trị quy ước

Năm 1901, tại Hội nghị toàn thể về Cân đô (lần thứ 3), đã đưa ra một gia trị tiêu chuẩn cho gia tốc trọng trường trên bề mặt Trái Đất là : gn= 9,80665 m/s2 . Nó được dựa trên kết quả đo lường được thực hiện tại Pavillon de Breteuil gần Paris năm 1888, với sự hiệu chỉnh lý thuyết được áp dụng để chuyển đổi thành vĩ độ 45° ở mực nước biển. Tuy nhiên đây không phải là một giá trị của một nơi cụ thể nào đó hay là giá trị trung bình, mà thực chất chỉ là giá trị tạm để sử dụng và sẽ được thay thế nếu có phát hiện mới.

Vĩ độ

nhỏ|Sự khác nhau của trọng lực Trái Đất xung quanh lục địa Nam Cực Bề mặt Trái Đất luôn chuyển động, vì thế nó không phải là khung tham chiếu không quán tính. Tại những vĩ độ gần đường xích đạo, lực ly tâm hướng ra ngoài do vòng quay của Trái Đất tạo ra lớn hơn ở vĩ độ hai cực. Điều này làm cho trọng lực Trái Đất giảm xuống một mức độ nhỏ hơn – lên đến tối đa 0.3% tại đường xích đạo – và làm giảm gia tốc hướng xuống của các vật vật rơi một cách rõ ràng.

Lý do chính thứ hai cho sự khác biệt về trọng lực ở các vĩ độ khác nhau là do sự phình của đường xích đạo của Trái Đất (một phần cũng từ lực ly tâm khi quay) khiến các vật thể ở xích đạo nằm xa trung tâm của Trái Đất hơn các vật ở hai cực. Bởi vì lực do lực hấp dẫn giữa hai vật thể (Trái Đất và vật thể nặng) dao động ngược chiều với bình phương khoảng cách giữa chúng, một vật ở xích đạo chịu lực hấp dẫn yếu hơn hơn được đặt ở hai cực Trái Đất.

Tóm lại, độ phình của đường xích đạo và tác dụng của lực ly tâm do sự tự quay quanh trục của Trái Đất làm cho trọng lực mực nước biển tăng từ khoảng 9,780 m/s2 tại xích đạo đến 9,832 m/s2 tại hai cực. Do đó một vật bất kì sẽ nặng hơn khoảng 0,5% nhiều hơn tại hai cực so với tại xích đạo.

Độ cao

nhỏ|Biểu đồ thể hiện sự thay đổi của trọng lực so với chiều cao của một vật thể trên bề mặt Trọng lực giảm dần theo độ cao (khi độ cao càng tăng thì trọng lực càng giảm và ngược lại) vì độ cao càng lớn thì khoảng cách lớn hơn tính từ tâm Trái Đất. Tất cả các thứ khác đều bằng nhau, việc tăng độ cao từ mực nước biển lên 9000m (30.000ft) khiến trọng lượng giảm khoảng 0,29% (Một yếu tố bổ sung ảnh hưởng đến trọng lượng rõ ràng là sự giảm mật độ không khí ở độ cao, làm giảm độ nổi của vật thể. Điều này sẽ làm tăng trọng lượng của một người ở độ cao 9000m khoảng 0,08%).

Một quan niệm sai lầm phổ biến rằng các phi hành gia trên quỹ đạo là không trọng lượng vì cho rằng họ đã bay đủ cao để thoát khỏi lực hấp dẫn của Trái Đất. Nhưng trên thực tế, ở độ cao 400km (250 dặm), tương đương với quỹ đạo điển hình của ISS, trọng lực vẫn gần bằng 90% so với trên mặt đất. Không trọng lượng thật sự xảy ra do các vật thể quay quanh đang rơi tự do.

Sự ảnh hưởng của độ cao mặt đất phụ thuộc vào mật độ của mặt đất (xem hình bên). Một trường đang bay ở độ cao là 30000 ft so với mực nước biển trên núi sẽ cảm thấy sự hiện diện của trọng lực nhiều hơn so với một người ở cùng độ cao nhưng đang trên biển. Tuy nhiên, một người đứng trên về mặt trái đất cảm thấy ít trọng lực hơn khi độ cao cao hơn.

Công thức sau đây xấp xỉ thể hiện trọng lực Trái Đất theo độ cao:

g_h=g_0\left(\frac{R_\mathrm{e{R_\mathrm{e}+h}\right)^2

Trong đó:

  • là gia tốc trọng trường ở độ cao h so với mực nước biển
  • là bán kính Trái Đất
  • là gia tốc trọng trường tiêu chuẩn

Trong công thức này, Trái Đất được xem là một khối cầu hoàn hảo với sự phân bố khối lượng đối xứng hoàn toàn.

Độ sâu

nhỏ|Sự phân bố mật độ xuyên tâm của Trái Đất theo mô hình Trái Đất tham chiếu sơ bộ (PREM) nhỏ|Trọng lực của Trái Đất theo mô hình Trái Đất tham chiếu sơ bộ (PREM). Hai mô hình cho Trái đất đối xứng hình cầu được đưa vào để so sánh. Đường thẳng màu lực đậm thể hiện mật độ không đổi bằng mật độ trung bình của Trái Đất. Đường cong màu lục nhạt dành cho mật độ giảm tuyến tính từ trung tâm đến bề mặt. Mật độ tại tâm giống như trong PREM, nhưng mật độ bề mặt được chọn sao cho khối lượng của quả cầu bằng khối lượng của Trái Đất thật.
Một giá trị gần đúng cho trọng lực ở khoảng cách r từ tâm Trái Đất có thể thu được bằng cách giả sử rằng mật độ của Trái Đất là một hình cầu đối xứng. Trọng lực chỉ phụ thuộc vào duy nhất khối lượng bên trong khối cầu có bán kính là r. Tất cả các sự tác dụng từ bên ngoài huỷ bỏ do kết quả của nghịch đảo bình phương trọng lực. Một kết quả khác là trọng lực được xem là tổng khối lượng được tập trung tại tâm. Do đó, gia tốc trọng trường tại bán kính này là:

g(r) = -\frac{GM(r)}{r^2}.

Trong đó là hằng số hấp dẫn và là tổng khối lượng trong vòng bán kính . Nếu Trái Đất có mật độ không đổi thì tổng khối lượng sẽ là và sự phụ thuộc của trọng lực vào độ sâu sẽ là:

g(r) = \frac{4\pi}{3} G \rho r.

tại độ sâu là sẽ được tính bằng , trong đó là gia tốc do trọng lực gâu ra trên bề mặt Trái Đất. là độ sâu và là bán kính của Trái Đất. Nếu mật độ giảm tuyến tính so với bán kính tăng từ mật độ tại trung tâm đến trên bề mặt thì và sự phụ thuộc sẽ là:

g(r) = \frac{4\pi}{3} G \rho_0 r - \frac{4\pi}{3} G \left(\rho_0-\rho_1\right) \frac{r^2}{r_{\mathrm{e}..

Sự phụ thuộc của độ sâu vào mật độ và trọng lực, được suy ra từ địa chấn qua các mốc thời gian (xem phương trình Adams-Williamson), được thể hiện trong các biểu đồ dưới đây.

Địa hình và địa chất

Sự khác biệt cục bộ về địa hình (như sự hiện diện của núi), địa chất (như mật độ đá ở vùng lân cận) và cấu trúc kiến tạo sâu hơn gây ra sự khác biệt cục bộ và khu vực trong trường hấp dẫn của trái Đất, được gọi là dị thường hấp dẫn. Một số trong những dị thường này có rất sâu rộng, dẫn đến sự phình ra ở mực nước biển và đồng hồ quả lắc chạy không đồng bộ.

Nghiên cứu về những dị thường này tạo nên nền tảng của địa vật lý hấp dẫn. Các dao động được đo bằng ống đo trọng lực có độ chính xác cao, sự ảnh hưởng của địa hình và các yếu tố đã biết khác đã bị loại bỏ, từ đó tìm ra được dữ liệu và kết quả đã được rút ra. Những kỹ thuật như vậy hiện đang được các nhà thăm dò địa chất sử dụng để tìm kiếm các mỏ dầu và khoáng sản. Đá dày đặc hơn (thường chứa quặng khoáng sản) gây ra lớn hơn so với các trường hấp dẫn cục bộ trên bề mặt Trái Đất. Đá trầm tích ít dày đặc gây ra điều ngược lại.

Các yếu tố khác

Trong không khí, các vật thể trải qua một lực nổi hỗ trợ làm giảm cường độ của trọng lực (được đo bằng trọng lượng của vật thể đó). Độ lớn của hiệu ứng này phụ thuộc vào mật độ không khí (và do đó có liên quan đến áp suất không khí).

Sự tác động lực từ Mặt Trăng và Mặt Trời (cũng là nguyên nhân của thuỷ triều) có ảnh hưởng rất nhỏ đến cường độ trọng lực của Trái Đất, tuỳ thuộc vào vị trí tương đối của chúng; các biến thể điển hình là 2 µm/s2 (0,2 mGal) trong vòng một ngày.

Sự thay đổi theo hướng

Gia tốc trọng trường là một đại lượng véc-tơ. Trong một Trái Đất đối xứng hình cầu, trọng lực sẽ hướng thẳng vào tâm của quả cầu. Vì Trái Đất hơi phẳng hơn nên sẽ có những sai lệch nhỏ về hướng của trọng lực.

Các giá trị so sánh trên toàn thế giới

Các công cụ tồn tại để tính toán sức mạnh của trọng lực tại các thành phố khác nhau trên thế giới. Ảnh hưởng của vĩ độ có thể thấy rõ với lực hấp dẫn ở các thành phố có vĩ độ cao: Anchorage (9,826 m/s2), Helsinki (9,825 m/s2), lớn hơn khoảng 0,5% so với các thành phố gần xích đạo: Kuala Lumpur (9,776 m/s2), Manila (9,780 m/s2). Ảnh hưởng của độ cao có thể thấy ở thành phố Mexicô (9,776 m/s2; độ cao 2,240m (7.350 ft)) và bằng cách so sánh Denver (9,798 m/s2; 1.616m (5.302 ft)) với Washington, DC (9.801 m/s2; 30m (98 ft)), cả hai đều gần 39° Bắc. Các giá trị đo được có thể được lấy từ Bảng vật lý và Toán học bằng T.M.Yarwood và F.Castle, Macmillan, phiên bản sửa đổi 1970.

Mô hình toán học

Mô hình vĩ độ

Nếu như địa hình đang ở mực nước biển, ta có thể ước tính được g{\phi}, gia tốc ở vĩ độ \phi:

\begin{align} g\{\phi\} & = 9.780327\,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2} \,\, \left(1 + 0.0053024\,\sin^2\phi - 0.0000058\,\sin^2 2\phi \right), \\ & = 9.780327\,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2} \,\, \left(1 + 0.0052792\,\sin^2\phi + 0.0000232\,\sin^4 \phi \right), \\ & = 9.780327\,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2} \,\, \left(1.0053024 - 0.0053256\,\cos^2\phi + 0.0000232\,\cos^4 \phi \right), \\ & = 9.780327\,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2} \,\, \left(1.0026454 - 0.0026512\,\cos 2\phi + 0.0000058\,\cos^2 2\phi \right) \end{align}.

Đây là công thức trọng lực quốc tế 1967, Công thức hệ thống tham chiếu trắc địa năm 1967, phương trình của Helmert hoặc công thức của Clairaut.

Một công thức thay thế cho g với dạng một hàm vĩ độ là WGS (hệ thống trắc địa thế giới) 84 công thức trọng lực Ellipsoidal.

g\{\phi\}= \mathbb{G}_e\left[\frac{1+k\sin^2\phi}{\sqrt{1-e^2\sin^2\phi\right],\,\!

Trong đó:

  • a,\,b lần lượt là các bán trục xích đạo và cực tương ứng
  • e^2 = 1 - (b/a)^2 là độ lệch tâm của hình cầu, bình phương
  • \mathbb{G}_e,\,\mathbb{G}_p\, là trọng lực xác định tại xích đạo và cực tương ứng
  • k = \frac{b\,\mathbb{G}_p - a\,\mathbb{G}_e}{a\,\mathbb{G}_e} (hằng số công thức)

Trong đó \mathbb{G}_p = 9.8321849378 \,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2},

:g{\phi}= 9.7803253359\,\,\mathrm{m}\cdot\mathrm{s}^{-2} \left[\frac{1 + 0.00193185265241\,\sin^2\phi}{\sqrt{1 - 0.00669437999013\,\sin^2\phi\right].

Sự khác biệt giữa công thức WGS-84 và phương trình của Helmert nhỏ hơn 0.68μm•s-2

Đối tượng nghiên cứu

  • Trái Đất
  • Hành tinh *v.v
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|right|Trọng trường Trái Đất do NASA thực hiện trong phi vụ thí nghiệm [[:en:Gravity Recovery and Climate Experiment|GRACE, thể hiện độ lệch với trọng trường lý thuyết của dạng trái đất làm trơn lý tưởng,
thumb|Mô phỏng máy tính của từ trường Trái Đất trong thời gian phân cực bình thường giữa các lần [[đảo cực địa từ . Các biểu diễn đường sức màu xanh lam ứng với trường
**Phản trọng trường**, **phản hấp dẫn** hay **phản trọng lực** là một hiện tượng giả thuyết về việc tạo ra một địa điểm hoặc vật thể không chịu tác dụng của lực hấp dẫn. Phản
**Trái Đất rỗng** là một tập hợp các thuyết cho rằng Trái Đất hoặc là hoàn toàn rỗng hoặc có chứa một không gian rỗng đáng kể bên trong nó. Các thuyết này từ lâu
nhỏ|[[Ánh sáng xanh bị tán xạ nhiều hơn các bước sóng khác bởi các khí trong khí quyển, bao quanh Trái Đất trong một lớp màu xanh rõ ràng khi nhìn từ không gian trên
Mặt cắt của [[Trái Đất từ lõi tới tầng ngoài (quyển ngoài) của khí quyển. **Một phần theo tỷ lệ**
1. _Crust_-Lớp vỏ (địa chất)
2. _Upper Mantle_-Quyển Manti trên
3. _Mantle_-Quyển Manti dưới
4. _Outer core_-Lõi ngoài
5. _Inner
thumb|Một hình ảnh động hiển thị vòng quay của Trái Đất quanh trục của nó thumb|Trời đêm trên dãy Himalaya Nepal, cho thấy đường của sao khi Trái Đất quay. **Hiện tượng tự quay của
Mô hình cắt của Trái Đất từ trong nhân ra. Cấu trúc bên trong Trái Đất tương tự như ở bên ngoài cũng bao gồm các lớp. Các lớp này được xác định dựa trên
**Hoa hậu Trái Đất 2012** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 12, được tổ chức ngày 24 tháng 11 năm 2012 tại Versailles Palace, Muntinlupa, Philippines. Ban đầu, cuộc thi dự định
Dưới đây là danh sách các thí sinh chiến thắng **Hoa hậu Trái Đất**. Đây là một cuộc thi sắc đẹp thường niên ra đời từ năm 2001. ## Danh sách Hoa hậu **Chú ý**
**Giờ Trái Đất** (tiếng Anh: _Earth Hour_) là một phong trào toàn cầu do Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) tổ chức. Sự kiện này được tổ chức hàng năm, khuyến
nhỏ|phải|Hình ảnh Trái Đất chụp năm 1972. Biểu đồ thời gian lịch sử Trái Đất **Lịch sử Trái Đất** trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt
**Hoa hậu Trái Đất** (tiếng Anh: **Miss Earth**) là một cuộc thi sắc đẹp quốc tế. Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới và Hoa hậu Quốc tế, là bốn cuộc thi
Trong địa vật lý, **dị thường trọng lực** (tiếng Anh: **gravity anomaly**) là sự khác biệt giữa gia tốc quan sát của trọng lực của hành tinh với giá trị trường bình thường, là giá
**Giả thuyết ngoài Trái Đất** (**ETH**) đề xuất rằng một số vật thể bay không xác định (UFO) được giải thích tốt nhất là tàu vũ trụ vật lý nằm dưới quyền điều khiển của
nhỏ|300x300px|Sáu vệ tinh quan sát Trái Đất, trong đó có tập vệ tinh [[A-train (tập vệ tinh)|A-train vào năm 2014]] **Vệ tinh quan sát Trái Đất** hoặc **vệ tinh viễn thám Trái Đất** là loại
**Thăm dò trọng lực** (Gravimetry) là một phương pháp của _Địa vật lý_, thực hiện đo Trọng trường Trái Đất để xác định ra phần _dị thường trọng lực_, từ đó xác định phân bố
**Hoa hậu Trái Đất 2007** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 7 được tổ chức tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Thành phố Quezon, Philippines vào ngày 11 tháng 11
**Hoa hậu Trái Đất 2014** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 14, được tổ chức vào ngày 29 tháng 11 năm 2014 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Quezon, Philippines.
**Hoa hậu Trái Đất 2011** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 11, được tổ chức vào ngày 3 tháng 11 năm 2011 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Thành phố
**Hoa hậu Trái Đất 2023** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 23, được diễn ra vào ngày 22 tháng 12 năm 2023 tại Quảng trường Diamond, Khu Đô thị Vạn Phúc, Thành
**Sự sống ngoài Trái Đất** là những sinh vật hay giống loài, trên các giả thuyết, tồn tại và phát triển bên ngoài Trái Đất. Hầu hết các nhà khoa học cho rằng sự sống
**Hoa hậu Trái Đất 2008** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 8, được tổ chức vào ngày 9 tháng 11 năm 2008 tại Trung tâm Triển lãm Clark Expo ở Angeles, Pampanga,
**Hoa hậu Trái Đất 2009** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 9, được tổ chức vào ngày 22 tháng 11 năm 2009 tại Trung tâm Hội nghị và Khu Nghỉ dưỡng Boracay
**Hoa hậu Trái Đất 2001** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần đầu tiên, được tổ chức vào ngày 28 tháng 10 năm 2001 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Thành phố
thumb|_Trái Đất mọc_, chụp ngày 24 tháng 12 năm 1968 bởi nhà du hành vũ trụ [[Apollo 8 William Anders.]] **_Trái Đất mọc_** (tiếng Anh: **_Earthrise_**) là một bức ảnh gồm Trái Đất và một
**Hoa hậu Trái Đất 2005** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 5 được tổ chức tại Nhà hát Trường Đại học Philippines, Thành phố Quezon, Philippines vào ngày 23 tháng 10 năm
**Hoa hậu Trái Đất 2013** là cuộc thi tìm ra đại diện thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường sống lần thứ 13, diễn ra vào ngày 7 tháng 12 năm 2013 tại
thumb|Máy Scintrex Autograv CG-5 Gravimeter đang làm việc **Máy đo trọng lực** (Gravimeter) là công cụ để đo Trọng trường Trái Đất tại địa phương cụ thể. Đó là loại máy đo gia tốc, chuyên
phải|nhỏ|Phần giãn rộng của các khối lục địa theo giả thuyết khi kích thước Trái Đất tăng do sự tạo thành các vật liệu mới dưới đáy biển. Sự chuyển động của các lục địa
**Hoa hậu Trái Đất 2006** là cuộc thi tìm ra chiến binh bảo vệ Trái Đất lần thứ 6, được tổ chức tại Viện Bảo tàng Quốc gia ở Manila, Philippines vào ngày 26 tháng
**Hoa hậu Trái Đất 2022** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 22 được tổ chức vào ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường Cove Manila, Parañaque, Vùng đô thị Manila,
**Hoa hậu Trái Đất 2004** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 4 được tổ chức vào ngày 24 tháng 10 năm 2004 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines ở Quezon, thủ
**Hiệp hội Khoa học Hệ thống Trái Đất** (ESSP) là một hiệp hội dưới sự bảo trợ của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ICSU) để nghiên cứu tổng hợp hệ thống Trái Đất, cách
**Hoa hậu Trái Đất 2018** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 18, được tổ chức vào ngày 3 tháng 11 năm 2018 tại Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Chủ đề của
thumb|308x308px|Trái Đất ở những vị trí khác nhau **Quỹ đạo của Trái Đất **là đường đi của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Trái Đất quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời với khoảng cách
nhỏ|300x300px| Hình minh họa so sánh kích thước của Trái Đất, Sao Hỏa và các ngoại hành tinh của [[Kepler-20 và Kepler-42.]] Một **tiểu Trái Đất** là một hành tinh "nhỏ hơn đáng kể" so
nhỏ|Trái Đất và Mặt Trăng đi qua Mặt Trời năm 2084, nhìn từ Sao Hỏa. Hình ảnh được tạo bằng JPL Solar System Simulator nhỏ| Trái Đất và Mặt Trăng từ Sao Hỏa, được chụp
nhỏ|350x350px| Các lớp vỏ Trái Đất, trong một bản vẽ. Lớp **vỏ Trái Đất** là khu vực ngoài cùng của cấu trúc đồng tâm của không gian địa lý, phần rắn của Trái Đất. Nó
**Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp** () là quỹ đạo gần Trái Đất. Quỹ đạo này có đặc trưng chu kỳ quỹ đạo nhỏ hơn 128 phút (vệ tinh hoàn thành ít nhất 11,25 vòng
thumb|[[Stonehenge từng được coi là một địa điểm quan trọng của một số tín đồ theo thuyết bí ẩn Trái Đất. Những người tin tưởng vào các bí ẩn Trái Đất thường coi các địa
**Hoa hậu Trái Đất 2017** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 17, diễn ra vào ngày 4 tháng 11 năm 2017 tại Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Hoa hậu Trái Đất
**Quỹ đạo Trái Đất** là vùng quỹ đạo mà bất kỳ vật thể nào quay quanh Trái Đất theo quỹ đạo ổn định như Mặt trăng hoặc các vệ tinh nhân tạo. Năm 1997, NASA
thumb|Các trang web của dự án quan sát vi sóng SETI (tìm kiếm trí thông minh ngoài Trái Đất) thuộc NASA. **Giao tiếp với trí thông minh ngoài Trái Đất** hay **CETI**, là một nhánh
**Hoa hậu Trái Đất 2002** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 2, diễn ra vào ngày 29 tháng 10 năm 2002 tại Trung tâm Văn hóa Philippines, Pasay, Philippines. Có 53 thí
thumb|right|upright=1.35|Vị trí của trạm Vostok ở châu Nam Cực thumb|right|upright=1.35|Ảnh chụp trạm Vostok từ trên không Nhiệt độ tự nhiên thấp nhất từng được ghi nhận trực tiếp trên bề mặt Trái Đất là −89,2 °C
**Hoa hậu Trái Đất 2019** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 19 được tổ chức tại Hội trường Cove Manila, Parañaque, Philippines vào ngày 26 tháng 10 năm 2019. Cuộc thi có
**Trung tâm địa lý của Trái Đất** là trung tâm hình học của tất cả các bề mặt đất trên Trái Đất. Trong một định nghĩa chặt chẽ hơn, đó là bề ngoài khối tâm
Mặt cắt của [[Trái Đất từ lõi tới tầng ngoài (quyển ngoài) của khí quyển.
1. _Crust_-Lớp vỏ (địa chất)
2. _Upper Mantle_-Quyển Manti trên
3. _Mantle_-Quyển Manti dưới
4. _Outer core_-Lõi ngoài
5. _Inner core_-Lõi trong]] **Lõi ngoài** của
**Hoa hậu Trái Đất 2003** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 3, được tổ chức vào ngày 9 tháng 11 năm 2003 tại Nhà hát Trường Đại học Philippines, Quezon ở thủ