✨Hiện tượng tự quay của Trái Đất

Hiện tượng tự quay của Trái Đất

thumb|Một hình ảnh động hiển thị vòng quay của Trái Đất quanh trục của nó thumb|Trời đêm trên dãy Himalaya Nepal, cho thấy đường của sao khi Trái Đất quay. Hiện tượng tự quay của Trái Đất là sự quay của hành tinh Trái Đất xung quanh trục của nó. Trái Đất quay từ phía tây sang phía đông. Nhìn từ sao Bắc cực Polaris, Trái Đất quay ngược chiều kim đồng hồ.

Bắc Cực, cũng được biết đến là Cực Bắc địa lý, là điểm ở Bán cầu Bắc mà trục quay của Trái Đất gặp bề mặt. Điểm này khác với Cực Bắc từ của Trái Đất. Nam Cực là điểm còn lại mà trục quay của Trái Đất gặp bề mặt, ở Châu Nam Cực.

Trái Đất quay một vòng khoảng 24 giờ so với Mặt Trời và 23 giờ, 56 phút và 4 giây so với các ngôi sao (xem phần dưới). Hiện tượng tự quay của Trái Đất chậm dần theo thời gian; vì vậy, một ngày trong quá khứ ngắn hơn hiện tại. Điều này là do hiệu ứng thủy triều Mặt Trăng tác động lên Trái Đất. Đồng hồ nguyên tử cho thấy một ngày trong thời hiện đại chậm hơn khoảng 1,7 mili giây so với một thế kỷ trước, từ từ tăng tốc độ Giờ Phối hợp Quốc tế được điều chỉnh bởi giây nhuận. Phân tích về ghi chép thiên văn học trong lịch sử cho thấy xu hướng chậm lại 2,3 mili giây mỗi thế kỷ từ thế kỷ thứ 8 TCN.

Lịch sử

Trong số những người Hy Lạp cổ đại, một vài trường phái Pythagoras tin rằng có Trái Đất tự quay thay vì sự quay vòng ngày đêm của thiên đường. Có lẽ người đầu tiên là Philolaus (470–385 TCN), mặc dù hệ thống của ông ấy phức tạp, bao gồm một phản-Trái Đất quay hàng ngày quanh một ngọn lửa trung tâm.

Một bức tranh thông thường hơn được ủng hộ bởi Hicetas, Heraclides và Ecphantus trong thế kỷ thứ 4 TCN, những người cho rằng Trái Đất quay nhưng không cho rằng Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Trong thế kỷ thứ 3 TCN, Aristarchus của Samos gợi ý về thuyết nhật tâm.

Tuy nhiên, Aristotle trong thế kỷ thứ 4 chỉ trích về ý tưởng của Philolaus là dựa vào lý thuyết hơn là quan sát. Ông ấy đưa ra ý tưởng một quả cầu định tinh quay quanh Trái Đất. Điều này được chấp nhận bởi hầu hết những người sau đó, cụ thể là Claudius Ptolemy (thế kỷ thứ 2 SCN), người nghĩ rằng Trái Đất sẽ bị phá hủy bởi bão nếu nó quay.

Năm 499 SCN, nhà thiên văn học người Ấn Độ Aryabhata viết rằng Trái Đất tròn quay quanh trục của nó hàng ngày, và dịch chuyển biểu kiến của sao là một chuyển động tương đối gây ra bởi sự quay của Trái Đất. Ông ấy cung cấp sự tương đồng sau: "Chỉ khi một người trên thuyền đi trên một hướng nhìn những vật tĩnh trên bờ như đang di chuyển về hướng ngược lại, tương tự như một người ở Lanka những định tinh có vẻ đi về hướng tây."

Trong thế kỷ thứ 10, một số nhà thiên văn học Hồi giáo chấp nhận rằng Trái Đất quay quanh trục của nó. Al-Biruni, Abu Sa'id al-Sijzi (d. circa 1020) phát minh một thước trắc tinh gọi là al-zūraqī dược trên ý tưởng được tin bởi một số người đương thời của ông ấy rằng "chuyển động chúng ta nhìn thấy là do dịch chuyển của Trái Đất và không do bầu trời." Sự phổ biến của quan điểm này sau đó được xác nhận bởi nguồn tham khảo từ thế kỷ thứ 13 mà cho rằng: "Theo những nhà hình học [hoặc kỹ sư] (muhandisīn), Trái Đất đang ở trong chuyển động tròn bất biến, và cái được cho là chuyển động của thiên đàng thược tế là do chuyển động của Trái Đất và không phải là các ngôi sao." Các luận án đã được viết để tranh luận về khả năng của nó, gồm những lời bác bỏ hoặc thể hiện nghi ngờ về tranh cãi phản đối nó của Ptolemy. Tại đài thiên văn Maragha và Samarkand, sự quay của Trái Đất được tranh luận bởi Tusi (b. 1201) và Qushji (b. 1403); lý lẽ và bằng chứng họ sử dụng giống với những gì Copernicus sử dụng để ủng hộ chuyển động của Trái Đất.

Ở châu Âu Trung Cổ, Thomas Aquinas chấp nhận quan điểm của Aristotle và do đó, một cách miễn cưỡng, cả John Buridan và Nicole Oresme trong thế kỷ thứ 14. Mãi đến khi Nicolaus Copernicus thông qua hệ thống nhật tâm năm 1543 đã xác minh hiện tượng tự quay của Trái Đất. Copernicus chỉ ra rằng Trái Đất dịch chuyển dữ dội, và sự dịch chuyển của các ngôi sao cũng vậy. Ông ấy công nhận đóng góp của môn đồ Pythagoras và đưa ra ví dụ chuyển động có liên quan. Đối với Copernicus đây là bước đầu trong việc tạo ra mô hình đơn giản hơn về các hành tinh xoay quanh Mặt Trời ở tâm.

Tycho Brahe, người đưa ra các quan sát chính xác mà các định luật của Kepler dựa vào đó, sử dụng thành quả của Copernicus làm nền tảng của hệ thống cho rằng Trái Đất tĩnh. Năm 1600, William Gilbert ủng hộ mãnh liệt sự tự quay của Trái Đất trong luận án của ông về từ trường Trái Đất và do đó tác động đến nhiều người đồng nghiệp của ông ấy. Những người như Gilbert mà không thẳng thắn ủng hộ hoặc bác bỏ chuyển động của Trái Đất xung quanh Mặt Trời thường được gọi là "người bán Copernicus". Một thế kỷ sau Copernicus, Riccioli tranh cãi về mô hình Trái Đất quay do thiếu quan sát sự lệch hướng về phía đông của cát vật rơi xuống; sự lệch hướng này sau đó được gọi là hiệu ứng Coriolis. Tuy nhiên, cống hiến của Kepler, Galileo và Newton tổng hợp ủng hộ cho lý thuyết về sự quay của Trái Đất.

Chu kỳ quay

Ngày Mặt Trời thực

Chu kỳ tự quay của Trái Đất so với trái đất (từ trưa thực đến trưa thực) là ngày Mặt Trời thực của nó. Nó phụ thuộc vào chuyển động quỹ đạo của Trái Đất và do đó bị ảnh hưởng bởi thay đổi trong độ lệch tâm và độ nghiêng của quỹ đạo Trái Đất. Cả hai đều thay đổi sau hàng nghìn năm nên sự thay đổi hàng năm của ngày mặt trời thực cũng thay đổi. Thông thường, nó dài hơn ngày Mặt Trời trung bình trong hai giai đoạn của năm và ngắn hơn trong hai giai đoạn còn lại. Ngày Mặt Trời thực có xu hướng dài hơn gần điểm cận nhật khi Mặt Trời di chuyển biểu kiến theo mặt phẳng hoàng đạo qua góc lớn hơn bình thường, cần khoảng dài hơn để làm vậy. Ngược lại, nó là khoảng ngắn hơn gần điểm viễn nhật. Nó là khoảng dài hơn gần điểm chí khi hình chiếu của sự dịch chuyển biểu kiến theo mặt phẳng hoàng đạo lên xích đạo thiên cầu khiến Mặt Trời di chuyển qua góc lớn hơn bình thường. Ngược lại, gần điểm phân hình chiếu lên xích đạo ngắn lại khoảng . Hiện nay, hiệu ứng điểm cận nhật và điểm chí kết hợp để kéo dài ngày mặt trời thực gần bởi giây mặt trời trung bình, nhưng hiệu ứng điểm chí bị loại bỏ một phần bởi hiệu ứng điểm viễn nhật gần khi nó chỉ dài hơn. Hiệu ứng điểm phân ngắn lại gần và bởi và lần lượt.

Ngày Mặt Trời trung bình

Trung bình của ngày Mặt Trời thực trong khoảng thời gian cả năm là ngày Mặt Trời trung bình, nó bao gồm giây Mặt Trời trung bình. Hiện tại, mỗi giây này dài hơn giây SI một chút bởi vì ngày Mặt Trời trung bình của Trái Đất bây giờ dài hơn một chút so với giá trị thế kỷ 19 của nó do ma sát thủy triều. Độ dài trung bình của ngày Mặt Trời trung bình kể từ việc giới thiệu giây nhuận năm 1972 khoảng từ 0 đến 2 ms so với 86.400 giây SI. Dao động ngẫu nhiên do kết nối lõi-manti có biên độ khoảng 5 ms. Giây Mặt Trời trung bình giữa năm 1750 và 1892 đã được chọn năm 1895 bởi Simon Newcomb làm đơn vị thời gian độc lập trong Bàn Mặt Trời của ông ấy. Bàn này được sử dụng để tính lịch thiên văn của thế giới giữa năm 1900 và 1983, nên giây này được biết đến là giây lịch thiên văn. Năm 1967 giây SI được làm bằng giây lịch thiên văn.

Thời gian Mặt Trời biểu kiến là một phép đo sự quay của Trái Đất và độ chênh lệch giữa nó và thời gian Mặt Trời trung bình được biết đến là phương trình thời gian.

Ngày stellar và ngày sidereal

thumb|Trên một điểm tại hành tinh như Trái Đất [[Chuyển động nghịch hành|quay cùng hướng với các thiên thể lân cận, ngày stellar ngắn hơn ngày Mặt Trời. (1→2 = một ngày stellar), (1→3 = một ngày Mặt Trời).]] Chu kỳ quay của Trái Đất so với định tinh được gọi là ngày stellar bởi Tổ chức quốc tế về Sự xoay của Trái Đất và Các hệ thống tham chiếu (IERS) là giây thời gian Mặt Trời trung bình (UT1) , ngày Mặt Trời trung bình). Chu kỳ quay của Trái Đất so với tiến động hoặc di chuyển điểm xuân phân trung bình, gọi là ngày sidereal, là giây thời gian Mặt Trời trung bình (UT1) , ngày Mặt Trời trung bình).

Cả ngày stellar và ngày sidereal ngắn hơn ngày Mặt Trời trung bình khoảng . Ngày Mặt Trời trung bình trong giây SI có thể xem ở IERS trong giai đoạn năm and .

Gần đây (1999–2010) độ dài trung bình hàng năm của ngày Mặt Trời trung bình đã thay đổi vượt quá 86.400 giây SI giữa và , nó phải được thêm vào cả hai giá trị của ngày stellar và ngày ở phần trên để có được độ dài trong giây SI (xem Biến động độ dài ngày).

Vận tốc góc

thumb|Đồ thị vĩ độ và tốc độ tiếp tuyến. Đường gạch hiển thị ví dụ trung tâm không gian Kennedy. Đường gạch chấm cho thấy vận tốc máy bay với [[tốc độ hành trình điển hình.]] Vận tốc góc của sự tự quay của Trái Đất trong không gian quán tính là radian trên giây SI (giây Mặt Trời trung bình). Nhân giá trị trong rad/s với bán kính xích đạo của Trái Đất (hình bầu dục WGS84) (hệ số 2π radian cần bởi cả hai giản ước) được vận tốc xích đạo , hoặc . Một vài nguồn cho rằng vận tốc xích đạo của Trái Đất là nhỏ hơn, ví dụ như . Điều này có được bằng cách chia chu vi xích đạo Trái Đất với . Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ một chu vi ngụ ý không chủ ý chỉ một sự quay trong không gian quán tính, nên đơn vị thời gian tương ứng phải là ngày sao. Điều này được xác nhận bằng cách nhân số ngày sao trong một ngày Mặt Trời trung bình, , Ví dụ, trung tâm không gian Kennedy nằm ở 28,59° vĩ độ Bắc, cho vận tốc: cos 28,59° x =

Thay đổi trong sự quay

thumb|[[Độ nghiêng trục quay của Trái Đất là khoảng 23,4°. Nó dao động giữa 22,1° và 24,5° trên một chu kỳ 41.000-năm và hiện nay nó đang giảm.]]

Thay đổi trong trục quay

Trục quay của Trái Đất di chuyển so với các định tinh (không gian quán tính); thành phần của chuyển động này là tiến động và chương động. Nó cũng di chuyển so với vỏ Trái Đất; nó được gọi là chuyển động cực.

Tiến động là sự quay của trục quay của Trái Đất, được gây ra chủ yếu bởi mô men xoắn từ lực hấp dẫn của Mặt Trời, Mặt Trăng và các vật thể khác. Chuyển động cực chủ yếu là do chương động lõi tự do và thay đổi Chandler.

Thay đổi trong vận tốc quay

Tác động thủy triều

Qua hàng triệu năm, sự tự quay của Trái Đất giảm đáng kể bởi gia tốc thủy triều qua tác động hấp dẫn với Mặt Trăng. Trong quá trình này, mô men động lượng được chuyển từ từ sang Mặt Trăng với tốc độ tỷ lệ với r^{-6}, với r là bán kính quỹ đạo của Mặt Trăng. Quá trình này tăng dần với độ dài của ngày đến giá trị hiện tại và dẫn đến Mặt Trăng bị khóa thủy triều với Trái Đất.

Sự giảm tốc quay dần dần này được ghi chép ước tính với các ước lượng độ dài ngày có được từ quan sát rhythmit và stromatolit; một sự biên soạn về các đo đạc này chỉ ra độ dài ngày tăng đều từ khoảng the 21 giờ vào 600 triệu năm trước đến giá trị hiện tại là 24 giờ. Bằng cách đếm phiến cực nhỏ hình thành ở thủy tiều cao hơn, tần số thủy triều (và do đó độ dài ngày) có thể được ước lượng, giống như đếm vòng cây, mặc dù ước lượng này có thể ít tin cậy hơn ở tuổi lớn hơn.

Sự kiện toàn cầu

Ngoài ra, một số sự kiện quy mô lớn, như Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, đã khiến hiện tượng quay nhanh hơn khoảng 3 micro giây bằng cách tác động mô men quán tính của Trái Đất. Nảy lên hậu băng hà, tiếp diễn kể từ Kỷ băng hà, cũng đang thay đổi sự phân bố khối lượng Trái Đất do đó tác động vào mô men quán tính của Trái Đất và bởi bảo toàn mô men động lượng, chu kỳ quay của Trái Đất.

Đo đạc

Việc quan sát sự quay của Trái Đất lâu dài được thực hiện với giao thoa kế đường cơ sở cực dài phối hợp với hệ thống Định vị Toàn cầu, vệ tinh định tầm laser, và các kỹ thuật vệ tinh khác.Việc này cung cấp tham khảo chắc chắn cho việc xác định giờ quốc tế, tiến động, và chương động.

Nguồn gốc

right|thumb|Hình ảnh của một nghệ sĩ về [[đĩa tiền hành tinh.]] Hiện tượng quay nguyên bản của Trái Đất là một dấu tích của mô men động lượng ban đầu của đám mây bụi, đá, và khí mà kết hợp để tạo thành Hệ Mặt Trời. Đám mây nguyên thủy này bao gồm hiđrô và heli được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn, cũng như các nguyên tố nặng hơn phát ra bởi siêu tân tinh. Vì bụi vũ trụ không đồng nhất, bất kỳ sự bất đối xứng nào trong quá trình bồi lắng hấp dẫn đều dẫn đến mô men động lượng của hành tinh được tạo ra.

Tuy nhiên, nếu giả thuyết vụ va chạm lớn đối với nguồn gốc của Mặt Trăng là chính xác, tốc độ quay nguyên thủy này đã bị thiết lập lại bởi va chạm Theia 4,5 tỷ năm trước. Bất kể tốc độ và độ nghiêng nào của sự quay của Trái Đất trước va chạm, nó đã trải qua một ngày dài khoảng 5 giờ sau va chạm. Hiệu ứng thủy triều sau đó làm chậm tốc độ này lại cho đến giá trị hiện đại bây giờ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Một hình ảnh động hiển thị vòng quay của Trái Đất quanh trục của nó thumb|Trời đêm trên dãy Himalaya Nepal, cho thấy đường của sao khi Trái Đất quay. **Hiện tượng tự quay của
right|thumb|Minh họa dựa trên phỏng đoán về một [[Trái Đất bị thiêu rụi sau khi Mặt Trời trở thành sao khổng lồ đỏ sau khoảng 5 tỉ năm nữa. Nhà địa chất học Christopher Scotese
thumb|Mô phỏng máy tính của từ trường Trái Đất trong thời gian phân cực bình thường giữa các lần [[đảo cực địa từ . Các biểu diễn đường sức màu xanh lam ứng với trường
nhỏ|Toàn bộ quá trình Mặt Trời lặn ở vùng cao nguyên của [[Hoang mạc Mojave.|228x228px]] nhỏ|Mặt Trời khoảng 1 phút trước khi diễn ra lặn thiên văn. nhỏ|Mặt Trời lặn, hoàng hôn và các giai
**Trái Đất rỗng** là một tập hợp các thuyết cho rằng Trái Đất hoặc là hoàn toàn rỗng hoặc có chứa một không gian rỗng đáng kể bên trong nó. Các thuyết này từ lâu
thumb|308x308px|Trái Đất ở những vị trí khác nhau **Quỹ đạo của Trái Đất **là đường đi của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Trái Đất quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời với khoảng cách
Mặt Trời mọc tại [[Cửa Lò, Việt Nam.]] phải|Mặt Trời mọc trên [[vịnh Bristol, Anh.]] phải|Mặt Trời mọc trên [[biển Chết nhìn từ Masada, Israel.]] nhỏ|Mặt Trời mọc ở [[Cà Mau, Việt Nam]] **Mặt Trời
Mô hình cắt của Trái Đất từ trong nhân ra. Cấu trúc bên trong Trái Đất tương tự như ở bên ngoài cũng bao gồm các lớp. Các lớp này được xác định dựa trên
nhỏ|phải|Hình ảnh Trái Đất chụp năm 1972. Biểu đồ thời gian lịch sử Trái Đất **Lịch sử Trái Đất** trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt
thumb|right|Trọng trường Trái Đất do NASA thực hiện trong phi vụ thí nghiệm [[:en:Gravity Recovery and Climate Experiment|GRACE, thể hiện độ lệch với trọng trường lý thuyết của dạng trái đất làm trơn lý tưởng,
thumb|alt=một dòng chữ được khắc bằng các ký tự của người Maya|Mặt phía đông của tấm bia C từ [[Quiriguá|Quirigua ghi ngày tháng khởi đầu của chu kỳ _b'ak'tun_ thứ 13 theo lịch Maya. Được
nhỏ|300x300px|Sáu vệ tinh quan sát Trái Đất, trong đó có tập vệ tinh [[A-train (tập vệ tinh)|A-train vào năm 2014]] **Vệ tinh quan sát Trái Đất** hoặc **vệ tinh viễn thám Trái Đất** là loại
thumb|Những đám mây dông của Đới hội tụ liên chí tuyến tạo thành một dải trên khắp phía đông Thái Bình Dương thumb|Ảnh [[hồng ngoại từ GOES 14 cho thấy Đới hội tụ liên chí
**Sự sống ngoài Trái Đất** là những sinh vật hay giống loài, trên các giả thuyết, tồn tại và phát triển bên ngoài Trái Đất. Hầu hết các nhà khoa học cho rằng sự sống
Đây là **danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định (UFO) đáng chú ý ở Vương quốc Liên hiệp Anh**. Nhiều vụ chứng kiến hơn đã
nhỏ|Vệ tinh địa đồng bộ quay quanh Trái Đất. **Quỹ đạo địa đồng bộ** (tiếng Anh: **geosynchronous orbit**, viết tắt là **GSO**) là quỹ đạo lấy Trái Đất làm tâm với chu kỳ quỹ đạo
**Giả thuyết ngoài Trái Đất** (**ETH**) đề xuất rằng một số vật thể bay không xác định (UFO) được giải thích tốt nhất là tàu vũ trụ vật lý nằm dưới quyền điều khiển của
Mặt cắt của [[Trái Đất từ lõi tới tầng ngoài (quyển ngoài) của khí quyển. **Một phần theo tỷ lệ**
1. _Crust_-Lớp vỏ (địa chất)
2. _Upper Mantle_-Quyển Manti trên
3. _Mantle_-Quyển Manti dưới
4. _Outer core_-Lõi ngoài
5. _Inner
**Hoa hậu Trái Đất 2018** là cuộc thi Hoa hậu Trái Đất lần thứ 18, được tổ chức vào ngày 3 tháng 11 năm 2018 tại Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines. Chủ đề của
nhỏ|[[Ánh sáng xanh bị tán xạ nhiều hơn các bước sóng khác bởi các khí trong khí quyển, bao quanh Trái Đất trong một lớp màu xanh rõ ràng khi nhìn từ không gian trên
thumb|Hình ảnh Trái Đất quay. Lõi bên trong (ở trung tâm của bên trong) có thể quay với tốc độ khác so với phần còn lại của [[Trái Đất.]] **Siêu xoay lõi bên trong** là
**Hoa hậu Trái Đất** (tiếng Anh: **Miss Earth**) là một cuộc thi sắc đẹp quốc tế. Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới và Hoa hậu Quốc tế, là bốn cuộc thi
thumb|Một [[hào quang 22° quanh Mặt Trăng ở Atherton, CA.]] **Hiện tượng quang học** là bất kỳ sự kiện nào quan sát được là kết quả của sự tương tác giữa ánh sáng khả kiến
thumb|_Trái Đất mọc_, chụp ngày 24 tháng 12 năm 1968 bởi nhà du hành vũ trụ [[Apollo 8 William Anders.]] **_Trái Đất mọc_** (tiếng Anh: **_Earthrise_**) là một bức ảnh gồm Trái Đất và một
**Pha Trái Đất**, hay **pha Terra**, là hình dạng của phần đĩa Trái Đất được ánh sáng Mặt Trời chiếu sáng khi nhìn từ Mặt Trăng (hoặc từ bất kỳ nơi nào khác ngoài Trái
thế=Một vầng hào quang 22° quanh Mặt Trời, được nhìn thấy trước trại cơ sở Annapurna, Annapurna, Nepal.|nhỏ|347x347px|Một vầng hào quang 22° quanh Mặt Trời, được nhìn thấy trước trại cơ sở Annapurna, [[Annapurna, Nepal.]]
Đây là danh sách các trường hợp được cho là nhìn thấy vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Iran. ## 1976 * Sự kiện UFO ở Tehran năm 1976 là vụ chứng
phải|nhỏ|Chuyển động tiến động của trục Trái Đất. Trái Đất quay một vòng mỗi ngày (theo chiều các mũi tên màu trắng) quanh trục quay của nó (màu đỏ); chính trục quay này cũng quay
Trong thiên văn học, một **bầu trời ngoài Trái Đất** là hình ảnh của không gian bên ngoài từ bề mặt của một hành tinh (hoặc vật thể ngoài không gian) ngoài Trái Đất. Bầu
Trong thiên văn học và cơ học thiên thể, **độ nghiêng trục quay** của các hành tinh, vệ tinh tự nhiên hay thiên thể nói chung là góc giữa phương tự quay của thiên thể
thế=Sự đi qua của Sao Thủy vào ngày 8 tháng 11, năm 2016 với vết đen 921, 922 và 923.|nhỏ|Sự đi qua của Sao Thủy vào ngày 8 tháng 11, năm 2006 với [[Vết đen
Sao Hỏa có hai tiểu **vệ tinh**, Phobos và Deimos, được cho là các tiểu hành tinh bị bắt giữ. Cả hai được Asaph Hall phát hiện năm 1877, được đặt tên theo các nhân
**Chấn động** là kết quả khi bề mặt của một hành tinh, vệ tinh tự nhiên hoặc sao bắt đầu rung chuyển, thường là hậu quả của việc giải phóng năng lượng đột ngột dưới
**Cổ địa từ** (Paleomagnetism) là môn nghiên cứu các dấu vết lưu giữ từ trường Trái Đất thời quá khứ trong các đá núi lửa, trầm tích, hoặc các di vật khảo cổ học. _Từ
Đây là danh sách những vụ chứng kiến vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Brasil. ## 1947 * Ngày 23 tháng 7 năm 1947, nhà địa hình José Higgins đang làm việc
phải|[[Sao Hải Vương (trên cùng) và Triton (ở giữa), 3 ngày sau khi _Voyager 2_ bay qua]] Tính đến tháng 2 năm 2024, Sao Hải Vương có 16 vệ tinh, được đặt tên theo các
Đây là danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Nam Phi. ## Thế kỷ 20 ### Máy bay đơn ma năm 1914
nhỏ|300x300px| So sánh kích thước của [[Kepler-10c, với Trái Đất và Hải vương tinh]] **Trái Đất khổng lồ** là một hành tinh ngoại hành tinh khổng lồ lớn gấp ít nhất mười lần khối lượng
**_Ngày Trái Đất ngừng quay_** (tựa gốc: **_The Day the Earth Stood Still_**) là một phim khoa học viễn tưởng giật gân của Mỹ năm 2008, chủ yếu chuyển thể từ phim điện ảnh cùng
Dưới đây là **danh sách tiêu biểu về những hiện tượng UFO** được quan sát gây xôn xao dư luận và nổi tiếng. Danh sách bao gồm cả những trường hợp được cho là nhìn
Ảnh vẽ minh họa sao từ với các [[vạch từ của từ trường.]] **Sao từ** là một dạng sao neutron với từ trường mạnh đến 10^{11} tesla, lớn hơn từ trường của Trái Đất khoảng
Đây là danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Pháp. ## 815 * 815, Lyon, Auvergne-Rhône-Alpes. Tổng giám mục vương triều Caroling
|} Mặt Trăng quay quanh Trái Đất theo hướng cùng chiều với chiều quay Trái Đất và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khi so sánh với các ngôi sao cố định trong khoảng
Hình ảnh mô phỏng của một đám mây bụi tiền hành tinh. **Sự hình thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời** bắt đầu từ cách đây khoảng 4,6 tỷ năm với sự suy sụp
thumb|phải|Đồ thị của các chu kỳ Milankovitch, được tính toán cho một triệu năm trở lại đây, với các chu kỳ của hệ số [[tiến động (_Precession_), độ nghiêng trục quay (_Obliquity_), và độ lệch
**Mặt Trăng** hay **Trăng**, **Nguyệt**, **Cung Hằng**, **Cung Trăng** (tiếng Anh: _Moon_, chữ Hán: 月) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất. Với độ sáng ở bầu trời chỉ sau Mặt Trời,tr.120
**_Liên minh công lý phiên bản của Zack Snyder_**, hay còn được gọi là phần phim "**Snyder Cut**", là phiên bản năm 2021 của bộ phim siêu anh hùng Mỹ năm 2017 _Liên minh công
:_Bài này nói về điểm nằm ở tận cùng phía Bắc của Trái Đất. Xem các nghĩa khác tại Bắc Cực (định hướng)_ nhỏ|phải|Điểm Cực Bắc **Bắc Cực** hay **cực Bắc của Trái Đất** (Cực
**Từ quyển của Sao Mộc** là khoang rỗng trong luồng gió mặt trời sinh ra bởi từ trường của hành tinh này. Mở rộng đến bảy triệu km theo hướng về phía Mặt Trời và
thumb|[[Bão Maysak (2015)|Bão Maysak nhìn từ Trạm Vũ trụ Quốc tế. Mắt bão, thành mắt bão, dải mây mưa bao quanh, những nét đặc trưng của một xoáy thuận nhiệt đới, có thể quan sát