✨Trận Königgrätz
Trận Königgrätz, còn gọi là Trận Sadowa hay Trận Sadová theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm dứt bằng việc quân đội Phổ do Vua Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke chỉ huy đánh bại hoàn toàn liên quân Áo-Sachsen do tướng Ludwig von Benedeck chỉ huy. Kết quả trận này đã xác định hoàn toàn phần thắng của Phổ trong cuộc chiến, dù đây là diều trái ngược với dự đoán của đa số dư luận trước chiến tranh. Trận Königgrätz còn được giới sử học đánh giá là một kiệt tác chiến trận khẳng định ưu thế vượt trội về tổ chức và trang bị của quân đội Phổ so với các nước khắc ở Bắc Đức.
Trận đánh xuất phát từ một kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Phổ, đứng đầu là Moltke, nhằm huy động ba tập đoàn quân lớn hành quân độc lập từ nhiều hướng, tập kết về Königgrätz để bao vây, tiêu diệt quân đội Áo-Sachsen. Sau nhiều thắng lợi ban đầu, quân Phổ áp sát phòng tuyến chính của quân Áo gần Königgrätz. Trận đánh bùng nổ khi quân Phổ thuộc Tập đoàn quân số 1 (Thân vương Friedrich Karl chỉ huy) và Tập đoàn quân Elbe (tướng Herwarth von Bittenfeld chỉ huy) xông lên phá trận. Do tuyến điện báo bị hỏng, Tập đoàn quân số 2 (Phổ) do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy còn xa chiến trường mà lại không nhận được lệnh tiến công. Đến trưa, quân Áo với ưu thế về quân số và pháo binh đã bẻ gãy cá mũi tấn công của địch. Cùng lúc đó, các sứ giả của Moltke cuối cùng đã đưa được lệnh tới Tập đoàn quân số 2, khiến cánh quân này phải hành quân gấp qua những đoạn đường lầy lội và vào chiều, họ đã nhập trận và đánh tan cánh phải mỏng manh của địch. Pháo binh dự bị của Quân đoàn Vệ binh Phổ do Vương tước Hohenhole chỉ huy cũng nghiền nát trung quân Áo. Thừa thắng, vua Phổ Wilhelm I hạ lệnh tổng tấn công trên mọi hướng. Trong khi đó, phương pháp tác chiến theo các toán quân lẻ của Moltke đã phần nào làm giảm ưu thế về pháo lực của đối phương. Giờ đây, con đường đến đã rộng mở cho người Phổ đánh chiếm đế đô Viên, đẩy triều đại nhà Habsburg đến bờ vực diệt vong. Song, vì mục đích chính trị lâu dài của mình, Thủ tướng Bismarck đã khuyên giải vua Phổ chấm dứt cuộc tiến công và khai mạc đàm phán với chính quyền Viên – vốn cũng không còn cách nào khác ngoài nhượng bộ. Hòa ước được ký kết ở Praha đầu tháng 8, dẫn đến sự thành lập Liên bang Bắc Đức với minh chủ là Vương triều Phổ. Bằng việc xác lập vai trò của nước Phổ dưới trào Bismarck như một trong những cường quốc hàng châu Âu và kết liễu sự bá quyền của nước Áo tại Đức, trận chến Königgrätz đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử.
Bối cảnh lịch sử
Vào tháng 9 năm 1862, Otto von Bismarck trở thành Thủ tướng của Vương quốc Phổ. Ông chủ trương đối đầu với người Áo và cổ vũ cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Albrecht von Roon và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke Lớn ra sức cải cách đổi mới lực lượng quân đội Phổ. Vào năm 1864, liên minh Áo-Phổ đã đánh bại Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, buộc Đan Mạch phải nhượng cho họ hai Công quốc Schleswig và Holstein.
Một nguyên nhân khiến cho cuộc chiến tranh này sẽ diễn ra là do người Phổ nuôi chí phục thù sự lăng nhục của người Áo đối với họ trong Hiệp ước Olmütz hồi năm 1850 làm tiêu tan hy vọng thống nhất nước Đức. Trước hết, vị Thủ tướng đảm bảo sự trung lập của Đế quốc Nga và Pháp. Người Nga, vốn đang tranh giành quyền lợi với Áo tại vùng Balkan, cũng bất mãn với vai trò của Áo trong cuộc Chiến tranh Krym. Đồng thời, giới lãnh đạo Nga cũng biết ơn Bismarck vì đã niêm phong biên giới của Phổ với Ba Lan trong cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ba Lan vào năm 1863 chống lại ách thống trị của người Nga – điều này khiến cho Nga dễ dàng dập tắt cuộc khởi nghĩa. Vào tháng 10 năm 1865, Bismarck tiếp kiến Hoàng đế Pháp là Napoléon III tại Biarritz và hứa hẹn sẽ nhượng bộ vùng ven sông Rhine cho Pháp, đổi lại Pháp phải giữ thái độ trung lập. Napoléon III tỏ ra thèm muốn chiến tranh đến mức mà ông nỗ lực biến Ý thành một đồng minh của Phổ, cũng đồng thời cho nước Áo biết rằng ông ta đang cố gắng bằng mọi giá để mà giữ vững sự trung lập của Ý. Bản thân chính quyền Ý thời bấy giờ cũng muốn giành lại miền Venezia từ Áo.. Vào ngày 21 tháng 6 năm ấy, nước Áo đã tổng động viên quân đội và sau 20 ngày thì nước Phổ theo gót Áo. Moltke đã triển khai ba tập đoàn quân tiến đánh người Áo dọc theo 250 dặm Anh (miles) ở biên cương. Ông lập kế hoạch cho cả ba Tập đoàn quân đều xuất hành theo ba trục song song về hướng Nam và tiến vào Böhmen. Vùng Böhmen trở thành chiến trường chính yếu của cuộc chiến. Tận dụng triệt để 5 tuyến đường sắt sẵn có của mình nhằm nhanh chóng vận chuyển binh lính và lương thực, Moltke đã quy tụ được ba tập đoàn quân Phổ tại ba địa điểm dọc theo một mặt trận dài 450 km: Tập đoàn quân sông Elbe dưới sự chỉ huy của Tướng Karl Herwarth von Bittenfeld quanh Torgau, Tập đoàn quân số 1 dưới quyền Thân vương Friedrich Karl quanh Görlitz và Tập đoàn quân số 2 dưới quyền Thái tử Friedrich Wilhelm quanh Schweidnitz-Neisse. Thực hiện phương châm "hành quân riêng rẽ và hợp nhất trong trận chiến" của Moltke, Tập đoàn quân số Elbe được lệnh tiến quân qua miền Trung Sachsen ở hướng Tây, trong khi Tập đoàn quân số 1 sẽ kéo vào miền Đông Sachsen và Tập đoàn quân số 2 sẽ thẳng tiến vào vùng Böhmen ở hướng Đông. Với mệnh lệnh ngày 22 tháng 6: "Đức Kim thượng truyền cho cả hai tập đoàn quân tiến vào Böhmen và tìm cách hội quân theo hướng Gitschin", ban bố cho các Tập đoàn quân số và số 2 (có hiệu lực với cả Tập đoàn quân Elbe ở Sachsen, vốn được xem là trực thuộc Tập đoàn quân số 1), Moltke dự kiến sẽ tập kết ba tập đoàn quân ở gần Gitschin (Jiçin) trước khi kéo rốc tới Ölmütz (Olomouc) – nơi mà những thông tin tình báo đã cho biết người Áo dự định tập trung binh lực của mình – nhằm rút ngắn độ dài của cuộc chiến. Mặc dù chỉ ra rằng Gitschin là một địa điểm thuận lợi về giao thông, Moltke cũng nói thêm một câu đầy tính thực dụng với Thái tử: "Dĩ nhiên đó không có nghĩa là Gitschin phải được tiếp cận bằng mọi giá; điều này lệ thuộc vào diễn tiến các sự kiện". Bên cạnh ưu thế về dân số, quân số và ngân sách quốc phòng, Áo còn có những tướng lĩnh giàu kinh nghiệm hơn so với đối phương: họ vừa đánh với người Pháp và Ý bảy năm trước trong khi Phổ chưa hề đánh với một cường quốc nào kể từ sau những cuộc chiến tranh của Napoléon. Đồng thời, ở miền Bắc Đức, chỉ hai tuần sau khi tuyên bố chiến tranh, Tập đoàn quân Phía Tây của Phổ dưới quyền Tướng Eduard Vogel von Falkenstein đã đánh thắng quân Hanover trong trận Langensalza và chấm dứt mọi hiểm nguy đến từ hướng đó. Bản nhân viên Tổng chỉ huy quân Áo giờ đây vẫn nhận thấy khả năng đánh một trận phòng ngự trên khoảng đất cao giữa các sông Bistritz và Elbe. Niềm tin của ông bắt đầu được hồi sinh khi mà ông chỉnh đốn quân ngũ để chuẩn bị trận đánh quyết định sắp sửa xảy ra.. Moltke đã mô tả vị trí phòng ngự của quân Áo đằng sau sông Bistritz là "cực kỳ vững mạnh". Còn theo tác giả Bayard Taylor trong cuốn History of Germany thì tổng binh lực của phía Phổ là 26 vạn người kèm theo 790 khẩu pháo, trong khi phía Áo có quân số tương đương.
Phía Phổ xác định vị trí phòng ngự của đối phương
Về phía Phổ, vào cuối tháng 6 năm 1866, sau những thắng lợi liên tiếp của các đạo quân trên chiến trường, Moltke và các sĩ quan tham mưu đã có thể rời Berlin ra mặt trận, cùng với nhà vua và tướng Albrecht von Roon. Nếu như trong giai đoạn đầu của chiến dịch, Moltke sử dụng điện báo để liên lạc với các tướng lĩnh trên chiến trường, thì bước sang giai đoạn thứ hai, ông trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Đi từ Berlin đến Reichenberg ở Böhmen theo đường sắt, Moltke dừng chân ở Kohlfurt trong buổi sáng ngày 30 tháng 6, để ra huấn lệnh cho các tập đoàn quân số 1 và số 2 bằng một bản điện báo ngắn. Bản huấn lệnh cho thấy Moltke có thể đã nhìn nhận tình hình như vậy: sau những chiến thắng của mình vào các ngày 27 và 28 tháng 6 (ông vẫn chưa hay tin về các cuộc giao chiến ngày 29 tháng 6), Tập đoàn quân số 2 đang tiến về sông Elbe, do đó vị Tổng tham mưu trưởng dự kiến cho đạo quân này trụ lại ở bờ trái (Đông) sông Elbe, với lực lượng cánh phải (bao gồm các Quân đoàn V và VI) ở tư thế sẵn sàng hội quân với cánh trái của Tập đoàn quân số 1 ở bên kia Königinhof. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 1 – được báo cáo gần thời điểm đó nhất là đang tiến về phía đông mà không hề gặp phải đối phương – được tiếp tục bước tiến của mình "không ngừng nghỉ" theo hướng Königgrätz – nghĩa là, tới một địa điểm trên sông Elbe thấp hơn nơi mà Tập đoàn quân số 2 đang hướng tới. Do thiếu trinh sát nên cũng như các tướng lĩnh dưới quyền của mình, Moltke không hề hay biết về địa điểm đóng quân và kế hoạch của Benedek, song chắc hẳn ông tin rằng viên tướng Áo đã vượt bờ Đông sông Elbe và rời Böhmen. Ngày 30 tháng 6, Bộ Tổng chỉ huy đến Reichenberg và nhận được một bản báo cáo nặng tính tô hồng về chiến thắng Gitschin của Friedrich Karl ngày hôm trước, theo đó trận Gitschin thắng lợi quyết định đến mức quân Áo bị tan vỡ và phải tháo chạy qua sông Elbe.
Buổi trưa ngày hôm đó, khi đến Schirow, nơi đã được liên kết với tổng hành dinh của Friedrich Karl và Berlin qua điện báo vào lúc sáng, Moltke phát hiện một bản điện báo cho biết Quân đoàn I đã vượt sông Elbe và các đơn vị khác của Tập đoàn quân số 2 được hoạch định là sẽ vượt sông vào các ngày tới. Không hề giận dữ, Moltke đánh điện tới Tập đoàn quân số 2: "Bản điện báo được mã hóa ngày hôm qua ra lệnh cho Tập đoàn quân số 2 ở lại bờ trái sông Elbe. Liệu các ông đã không nhận được bản điện báo này, hay là các ông có một lý do cụ thể nào đó để vượt sông cùng với toàn bộ binh lực của mình". Có lẽ sự biến mất hoàn toàn và đột ngột của quân Áo khỏi tầm mắt của cả hai tập đoàn quân làm cho ý định ban đầu của Moltke có sự thay đổi, và ông bổ sung thêm một bản điện tín cho tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 2 là Leonhard von Blumenthal: "Tôi sẽ đến Gitschin vào buổi tối thay đổi. Tập đoàn quân số 1 sẽ nghỉ ngơi vào ngày mai và có lẽ là vào ngày hôm sau nữa. Đang mong đợi một cuộc hợp mặt với sĩ quan của các ông". Trên thực tế, tại Königinhof, Blumenthal đã nhận được bản điện tín mà Moltke gửi từ Kohlfurt, nhưng không hiểu được ý nghĩa của mệnh lệnh do một lỗi trong quá trình đánh máy. Cũng như Friedrich Karl, Blumenthal chưa hề có dự đoán mơ hồ nhất về địa điểm cố thủ của Benedek và tin rằng những thắng lợi của quân mình trong các ngày trước đã đẩy quân Áo qua song Elbe, dù là theo một hướng khác. Giờ đây, ông tin rằng quân Áo đã rút "vào những vùng sâu xa của Böhmen".
Tin tức mà Unger thu thập được đã thay đổi hoàn toàn thái độ thận trọng của Friedrich Karl trong cuộc chiến. Ông đề ra một quyết định mà được các nhà viết tiểu sử về sau này nhìn nhận là vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất trong sự nghiệp quân sự của ông: huy động toàn bộ lực lượng của mình để tấn công quân địch trong buổi sáng ngày hôm sau. Từ 7 đến 9 giờ tối, ông cùng với Voights-Rhetz vạch ra kế hoạch tổ chức một cuộc tấn công trực diện bằng toàn bộ lực lượng của Tập đoàn quân số 1, khởi đầu lúc 7 giờ sáng ngày 3 tháng 7, trong khi Bittenfeld tiến quân đến Nechanitz để đánh bọc sườn trái của Áo ở phía nam. Đến 9 giờ 30, các kế hoạch đã được hoàn tất và thượng lệnh được ban bố cho các đơn vị trực thuộc Tập đoàn quân số 1, ngoài ra một thông điệp được đưa đến Tập đoàn quân số 2 để yêu cầu sự trợ giúp. Giờ đây, ít nhất đã 3 tiếng đồng hồ sau khi được thông báo về sự hiện diện của quân Áo và sau khi các sư đoàn của Tập đoàn quân số 1 được lệnh tiến về các khởi điểm của mình, Friedrich Karl và tham mưu trưởng của ông mới quyết định báo tin cho Moltke. Voights-Rhetz đến Gitschin vào khoảng 10 giờ tối và nhìn thấy Wilhelm I đang ngủ. Ông đã đánh thức quân vương dậy và báo cáo về những quyết định vừa qua của Friedrich Karl. Sau một cuộc tranh luận ngắn – mà theo lời kể của Voights-Rhetz là Đức vua hoàn toàn đồng thuận với mọi sự bố trí binh lực của Tập đoàn quân số 1 – ông vào tiếp kiến Moltke, người cũng đang ngủ. Sau khi thức dậy với câu: "Chúa phải được tôn cao", vị Tổng tham mưu trưởng tiếp nhận báo cáo của Voights-Rhetz. Do Tập đoàn quân số 1 đã dàn xếp xong xuôi mọi thứ trong thời gian này, Moltke không còn gì khác ngoài việc ưng thuận kế hoạch được đệ trình cho ông; song, việc ông có hoàn toàn hài lòng với bản kế hoạch này – một cuộc tấn công trực diện vào hệ thống phòng ngự rắn chắc của Áo mà kết quả tốt nhất chỉ có thể là một cuộc triệt binh của Áo – hay không là điều đáng nghi vấn. Trong suốt quá trình phục vụ của mình trước trận chiến, Fransecky được biết đến trong quân đội Phổ như một trí thức quân sự, chứ không phải là một chiến binh. Ông chưa hề chỉ huy bất kỳ một đại đội hay một tiểu đoàn nào. Bất chấp sự non kinh nghiệm của mình, ông đã đóng một vai trò hết sức quan trọng ở trận Königgrätz, và không một viên chỉ huy đơn vị nào có được nhiều vinh quang trong trận chiến như ông.
Trong khi đó, bằng một sự phối hợp chính xác, các sư đoàn số 8 và 4 của Phổ đã hợp vây được Sadowa. Giữa lúc đạo quân tiền vệ của Sư đoàn số 8 giao chiến trực diện với Lữ đoàn Prohaska của Áo trấn giữ thị trấn này, quân chủ lực của sư đoàn (hay Gros) và lực lượng tiền vệ của Sư đoàn số 4 đã được lệnh tiến từ hướng bắc vào khu rừng nằm ở phía sau Sadowa, nằm cắt đứt đường rút của quân phòng thủ. Vận động này hầu như đã thành công, nhưng người Áo đã phát giác kịp thời mối nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Lữ đoàn Prohaska nhanh chóng rút khỏi thị trấn và tháo lui về Lipa, với sự yểm trợ của Trung đoàn Khinh chiến số 34 và Trung đoàn Roman-Banat – các đơn vị trấn giữ khu rừng cho đến khi cuộc triệt thoát được hoàn tất, rồi sau đó cũng rút lui. Sau khi chiếm được Sadowa một cách dễ dàng, các tiểu đoàn tiên phong của hai sư đoàn 4 và 8, cùng với các tiểu đoàn án ngữ làng Ober-Dohalitz sau lưng họ, rơi vào tình trạng rất giống với sư đoàn của Werder. Bởi lẽ, một bộ phận không nhỏ của các khẩu đội Áo dàn trận trên các cao điểm đã tập trung hỏa lực về phía sau. Bị buộc phải ẩn náu dưới các bụi cây của rừng Holawald và đống đổ nát của Ober-Dohalitz, nhưng cả rừng lẫn làng mạc đều không thể là nơi trú ẩn an toàn dưới làn đạn pháo hết sức kinh hoàng của đối phương. Để thoát khỏi địa ngục của cuộc pháo kích, một số đơn vị Phổ mở những đợt tấn công ác liệt như vô ích về phía cao điểm nơi các khẩu đội của Áo dàn trận. Trong bộ dạng tơi tả và không còn sức chịu đựng nữa, các tiểu đoàn Phổ lao về phía trước, và không làm được gì trừ việc bị đạn pháo của Áo cày nát. Các sĩ quan Phổ phải khó nhọc ngăn chặn những đợt tấn công tự sát như vậy. Quân Phổ cũng chiếm được làng Cistowes. Chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ giao tranh dữ dội, 6 tiểu đoàn Phổ của Zychlinski và Gordon đã đập tan hơn 10 tiểu đoàn Áo. Trong đó, họ tiêu diệt Lữ đoàn Bramdenstein chỉ trong 30 phút và giết chết viên lữ đoàn trưởng, buộc lữ đoàn này phải rút chạy về Maslowed mà không thể chiếm lại được Swiepwald. Về sau này, Zychlinski đã ghi nhận về cuộc chiến ở rừng Swiepwald như là một hình thức giao chiến mà trong đó sĩ quan chỉ huy bị mất hết kiểm soát, và các đơn vị chiến thuật dần dần nhỏ đi, cho đến đỉnh điểm là mỗi binh lính có lẽ đều chiến đấu riêng mình. Một hạ sĩ Phổ cũng đồng ý với Zychlinski, và cho biết rằng, trong tình huống đó, các sĩ quan cao cấp của Phổ – do không có gì để chỉ đạo – chỉ có thể truyền cảm binh lính bằng tấm gương về lòng dũng cảm cá nhân của họ.. Nhưng trong lúc Quân đoàn IV đang di chuyển về vị trí đã được giao, tham mưu trưởng của ông là Đại tá von Gorz chỉ ra rằng trận tuyến này bị chế ngự bởi cao điểm Maslowed và nếu quân địch đánh chiếm Maslowed thì Quân đoàn IV cũng khó lòng giữ nổi trận tuyến. Vì thế, Festetics đã cố tình dời lên một khoảng đất cao hơn, nằm giữa Cistowes và Maslowed.
Mặt khác, bây giờ đã là 11 giờ sáng. Trong khi thiệt hại của Sư đoàn 7 Phổ ngày càng gia tăng, người Áo dứt khoát phải tiếp tục cuộc tấn công của mình. Trong khoảng thời gian này, khi một trong các sĩ quan phụ tá của Đức vua là Thượng tá Friedrich Karl Walther Degenhard Freiherr von Loë đến tiếp kiện viên chỉ huy Sư đoàn 7, Fransecky bày tỏ với vị sứ giả nguồn nhân lực, tài lực của ông đang cạn kiệt, song ông khẳng định sẽ chiến đấu cho đến người cuối cùng. Loë phi ngựa về tổng hành dinh và yêu cầu tăng cường bộ binh cho Sư đoàn 7. Trong khi nhà vua đang suy xét về việc này, Moltke dứt khoát phản bác và nói bằng giọng điệu cứng cỏi: một lần nữa, quân Áo đã dần dần đẩy được quân Phổ ra mép rừng Swiepwald. Trong khi tình hình càng lúc càng đen tối, dấu hiệu tuyệt vọng có thể được tìm thấy trong phản hồi của Fransecky khi nhà vua sai sứ đi dò hỏi tình trạng quân lực: "Nói với Thánh thượng rằng Sư đoàn số 7 bị thiệt hại nặng nhưng sẽ giữ chặt vị trí". Trải qua hàng tiếng đồng hồ cho đến giờ, các sĩ quan Sư đoàn số 7 luôn miệng cầu khẩn: "Chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa! Thái tử sẽ đến!". Nhưng Thái tử vẫn chưa đến, trong khi sức chịu đựng của sư đoàn đã đến giới hạn. Chiến trường đã trở thành một nghĩa địa của người Áo, Ý, Hungary, Romania và Croatia, với số quân bị loại khỏi vòng chiến lên đến khoảng 15.000.. Tình hình gợi cho phóng viên báo The Times hồi tưởng đến giai đoạn cuối trận Waterloo, khi mà Công tước Wellington chỉ huy quân Anh mong mỏi trông chờ quân tiếp viện Phổ của Blücher.
Hoạt động của khinh kỵ binh Phổ ở Swiepwald
Trong trận đánh giằng co ở Swiepwald, có thể kể đến cuộc tấn công của một khối khinh kỵ binh thuộc Trung đoàn Khinh kỵ binh 101 Magdeburg bắt gọn một tiểu đoàn Áo. Trung đoàn Khinh kỵ binh 10 Magdeburg, một đơn vị tháp tùng theo Sư đoàn 7 của Fransecky, đã được lệnh tiến quân tới Cerekwitz trong đêm ngày 2 tháng 7, và vào 2 giờ sáng ngày 3 tháng 7, họ đến bên ánh lửa trại của các tiền đồn rồi ở lại đây cho đến lúc 7 giờ rưỡi sáng.
Bước ngoặt của trận chiến
Vào lúc 12 giờ 30, các đơn vị tiền quân của Tập đoàn quân số 2 cuối cùng cũng gia nhập trận chiến. Mặc dù trận đánh sẽ còn ác liệt, Moltke hiểu rằng chiến lược của mình đã thành công. Tương truyền ông nói: "Chiến thắng đã trọn vẹn, Viên nằm dưới chân Bệ hạ" Mặc dù vậy, ngày nay, tên tuổi ông chẳng mấy khi được nhớ đến. Một đài tưởng niệm thô kệch đã được dựng lên tại đây với dòng chữ "Khẩu đội pháo Tử thần". Nhưng rồi, Bittenfeld một lần nữa lại tỏ ra uể oải, và sau khi đẩy lui được địch, ông ra lệnh cho Tập đoàn quân Elbe dừng chân. Trong tay ông vẫn còn Sư đoàn số 16 chưa được tung vào trận, nhưng giờ đây ông chỉ củng cố vị trí của mình quanh Probus. Do vậy, một cơ hội để hợp vây quân của Benedek từ hai phía đã bị đánh mất.. Ngoài ra, quân Áo cũng đánh mất 160 khẩu pháo và 5 cờ hiệu Một số nhà bình luận, trong đó có sử gia người Mỹ Geoffrey Wawro, quy cho Moltke trách nhiệm về việc để quân chủ lực Áo rút khỏi trận địa, song sử gia Mỹ Max Boot khẳng định rằng đây không phải là một thiếu sót lớn. Quân Áo đã thiệt hại hết sức nặng nề trong khi pháo binh và tiếp tế của họ bị bỏ lại chiến trường Một sĩ quan tham mưu của ông ta khi thị sát các lực lượng rệu rã của Tập đoàn quân phía Bắc đã cho biết họ "không còn là một tập đoàn quân nữa, mà đúng hơn là một đám khố rách áo ôm gồm những tên ngu dốt, lười biếng và lập dị". Trong những tuần lễ sau đó, quân đội Phổ tiếp tục truy kích đối thủ bại trận. Giờ đây, con đường đã rộng mở cho quân đội Phổ tiến vào Viên và sự sụp đổ của vương triều Habsburg là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Để nhanh chóng đánh chiếm Viên và áp đặt một nền hòa bình với Áo trước khi Áo và Nga – giờ đây đang bận tâm về một sự thay đổi cán cân quyền lực ở châu Âu – có thể can thiệp bằng vũ lực, Moltke hạ lệnh cho các lực lượng Phổ từ bỏ các đoàn tiếp tế lương thảo của mình và thay vì đó phải trưng dụng lương thực để sống. Giữa tháng 7 năm 1866, một nhà ngoại giao Anh cho biết, ba tập đoàn quân Phổ cùng với các toán "biệt kích trưng dụng" của họ đã biến lãnh thổ phía bắc sông Donau của Áo thành một "sa mạc rộng lớn". Đối mặt với sự tàn phá có hệ thống trên những vương thổ giàu có nhất của mình, Franz Joseph hy vọng Pháp sẽ can thiệp. Ngay từ ngày 5 tháng 7, ông ra lệnh cho Đại sứ Áo ở Paris, Vương công Richard Metternich (con của nhà ngoại giao nổi tiếng Klemens von Metternich giữa thế kỷ 19) cầu khẩn Napoléon tấn công Phổ. Tuy nhiên, yêu cầu của Franz Joseph đã không được Napoléon đáp trả. Giữa lúc quân Phổ đang kéo về Viên, Bá tước Beust, Thủ tướng Sachsen, sang Pháp để lặp lại lời cầu cứu Napoléon. Beust đã tiên đoán đúng khi ông cảnh báo Napoléon rằng nếu không đánh Phổ ngay bên giờ, Pháp sẽ phải đương đầu với toàn bộ nước Đức được vũ trang về sau này. Nhưng, do không lường trước được chiến thắng Königgrätz của Phổ, hoàng đế nước Pháp chưa chuẩn bị trước và không có tâm tạng để đối mắt với những người thắng trận này. Tình hình vẫn chưa phải là hoàn toàn tuyệt vọng với Áo sau trận Königgrätz, do thắng lợi của họ trước quân Ý trong trận Custozza đã tạo điều kiện cho Tập đoàn quân phía Nam của Áo rảnh tay để đối phó với quân Phổ về hướng bắc, và viên chỉ huy của tập đoàn quân này là Albrecht đã được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh tất cả các tập đoàn quân Áo vào ngày 10 tháng 7 để tổ chức phòng nự kinh thành Viên. Song, sự tan rã của Tập đoàn quân phía Bắc ngoài mặt trận, kết hợp với sự suy sụp tinh thần của dân chúng Áo tại hậu phương cũng chứng tỏ người Áo không thể tiếp tục chiến tranh. Phần lớn công chúng Áo phản đối tiến hành chiến tranh du kích – một cuộc đấu tranh tới cùng để bảo vệ Tổ quốc, mà thay vì đó họ ép buộc Hoàng đế phải nghị hòa. Giờ đây, hoàng đế Áo cố gắng cứu vãn những gì còn có thể cứu được bằng một hiệp ước hoà bình với Phổ, với hy vọng sẽ phục thù trong tương lai. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1866, Franz Joseph I quyết định nhân nhượng với Phổ. Trận đánh cuối cùng của cuộc chiến đã diễn ra ở Blumenau đúng vào ngày hôm đó, khi Hiệp định đình chiến giữa hai bên đang được ký kết.
Trong khi các võ tướng Phổ đều nóng lòng khai thác thắng lợi của mình, và Moltke cũng không ngoại lệ, quan điểm Bismarck thì ngược lại.
Ngoài ra, chiến thắng oanh liệt của Phổ trong trận này đã làm cho nước Pháp hết sức kinh ngạc. Hầu như chỉ trong chốc lát, một lân bang nhỏ bé và dễ kiềm chế đã vươn lên thành một thế lực quân sự và công nghiệp khổng lồ. Với việc vinh quang của Solferino bị lu mờ trước Königgrätz, những thắng lợi của Phổ đánh một đòn nặng nề vào niềm kiêu hãnh và tinh thần dân tộc của Pháp, làm người Pháp cảm thấy bị mình xúc phạm và thách thức. Các quan chức của Napoléon III đã khuyên hoàng đế phải ra tay ngay lập tức để ngăn ngừa hậu họa. "Sự vĩ đại là tương đối", viên cơ mật đại thần của hoàng đế Pháp cảnh báo, _"sức mạnh của một quốc gia có thể bị tiêu ma chỉ do một sự thật là những lực lượng mới nổi đang tụ tập quanh nó". Eugène Rouher, Quốc vụ khanh Pháp, còn nói cụ thể hơn: "Đập nát Phổ và chiếm vùng Rhein"_. Nói đến Rhein, Rouher ám chỉ các thành phố ở miền Tây Phổ (Köln, Düsseldorf và vùng Ruhr với các thành phố Essen, Bochum và Dortmund ở Westfalen), những trung tâm công nghiệp quan trọng mà Berlin không thể tồn tại nếu không có. Ngay cả những người theo chủ nghĩa tự do đối lập với Napoléon cũng chủ trương ủng hộ các cuộc phiêu lưu quân sự. Thay vì đó, Napoléon chưa gây chiến mà ông ta thử lừa phỉnh Bismarck. Đầu tháng 8 năm 1866, một tháng sau trận Königgrätz, khi quân đội Phổ còn đang lo bình định đất Áo, Napoléon đột ngột yêu cầu Phổ hỗ trợ cho người Pháp lập lại "những đường biên giới năm 1814", nói cách khác là Pháp muốn giành lại vùng lãnh thổ hình vuông ở bờ trái sông Rhein đã bị sáp nhập vào Pháp trong Chiến tranh Cách mạng Pháp và được trả lại cho các bang Đức sau trận Waterloo. Không may cho Pháp, tham vọng bành trướng này đã triệt hạ khả năng xây dựng hình ảnh của họ như là "người bảo hộ các quốc gia Nam Đức". Bismarck lấy đó làm cơ sở để đe dọa sẽ thống nhất toàn bộ nước Đức chống lại Pháp đồng thời tiến hành ký kết những bản hòa ước riêng lẻ của Phổ với các quốc gia Nam Đức nhằm hướng đến những liên minh quân sự theo đó Phổ chỉ huy quân đội và các tuyến đường sắt của những nước này trong thời bình. Hoàng đế Pháp đành phải bỏ cuộc và Hòa ước Praha được ký kết vào ngày 23 tháng 8 như đã nêu. Nhìn nhận trận đánh như là một thất bại của Pháp, dư luận Pháp trong tâm trạng phẫn nộ đã đề nghị "Revanche pour Sadova", có nghĩa là Báo thù cho Sadowa. Điều này đã góp phần dẫn đến cuộc Chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, trong đó Moltke đã bắt gọn 9 vạn quân chủ lực Pháp của Napoléon III ở Sedan vào ngày 11 tháng 9.
Ý nghĩa của trận đánh
Cho đến ngày nay, Königgrätz vẫn được nhìn nhận là một trong những trận đánh quyết định nhất trong thời kỳ cận đại-hiện đại. Là "một bước ngoặt của lịch sử" (theo Wawro), trận đánh và các sự kiện diễn ra sau đó là những minh chứng cho thấy rằng những trận đánh lớn có thể làm thay đổi cục diện của lịch sử. Sáu năm trước đó, thời báo The Times của Luân Đôn đã chế giễu: "Phổ mà không có đồng minh thì sẽ không thể giữ nổi sông Rhine hoặc sông Vistula được một tháng", Giờ đây, chỉ trong khoảng thời gian tính bằng ngày, nước Phổ đã leo từ hạng thấp lên hàng đầu trong các liệt cường. Thắng lợi của cuộc chiến đem lại cho Phổ 3357 km² lãnh thổ với 7 triệu dân. Dưới sự lãnh đạo của Bismarck, Phổ đã làm chủ phần lớn Đức và có thế để thâu tóm phần còn lại – điều mà họ đã hoàn thành với sự kiện thống nhất nước Đức ngày 18 tháng 1 năm 1871, khi Phổ và liên minh Đức đã nắm chắc phần thắng trong cuộc chiến tranh với Pháp. Trong khi đó, kể từ sau thất bại ở Königgrätz, đế quốc Áo 600 năm tuổi không còn đóng một vai trò chi phối nào trên trường quốc tế. Trên một trận địa rộng khoảng 20 km, pháo binh Áo rền vang với tốc độ bắn mà trước đây hầu như chưa từng thấy, khai hỏa với tỷ lệ hỏa lực, báo hiệu cường độ khủng khiếp của những hàng rào pháo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngoài ra, mặc dù diễn biến của trận đánh cho thấy kỵ binh Áo là lực lượng tốt và kỵ luật nhất trong việc trì hoãn bước tiến thắng lợi của bộ binh Phổ, thiệt hại hết sức thảm khốc mà súng trường nạp hậu Phổ gây ra cho họ đã góp phần khẳng định rằng những ngày tháng vinh quang của các trung đoàn kỵ binh kiểu cũ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Họ đã nhanh chóng chấn chỉnh những sai sót trong buổi sáng để giành thắng lợi trong trận đánh.
Thắng lợi quyết định ở Königgrätz đã khẳng định niềm tin của Moltke vào sức mạnh của quân lực Phổ thời bấy giờ.
Trong văn hóa
Nhà soạn nhạc quân sự Phổ là Johann Gottfried Piefke đã sáng tác bản "Hành khúc Königgrätz" (Quân hành ca II, 197) để kỷ niệm chiến thắng này. "Hành khúc Hohenfriedberg" được Piefke sử dụng làm phần tam tấu của bản quân hành ca, như để ghi nhớ những thắng lợi của Friedrich II trước người Áo. Ngày nay, "Hành khúc Königgrätz" là một trong những bản quân hành ca quan trọng và nổi tiếng nhất của Đức, thường được trình tấu trong các nghi lễ. Trái lại, bản hành khúc rất hiếm khi được nghe ở Áo vì những lý do cụ thể.
Trong tiểu thuyết hiện thực Effi Briest (1894 – 1895) của văn hào Đức Theodor Fontane, nhân vật cùng tên truyện đã sinh ra đứa con gái duy nhất của cô là Annie đúng vào dịp kỷ niệm đại thắng Königgrätz.
Bộ phim Đức Quốc xã Bismarck (1940), đạo diễn bởi Wolfgang Liebeneiner, có đoạn nói về chiến thắng Königgrätz. Trong phim, trận chiến được miêu tả như một công trình hoàn toàn của Helmuth von Moltke; cảnh phim không cho thấy một người lính nào.
Do trận thảm bại này mà cho đến nay từ "Königgrätz" vẫn được sử dụng như một từ lóng ở Áo, có nghĩa là "thất bại", tương tự như "Waterloo" trong tiếng Anh.
Bưu thiếp năm 1901 **Alfred Ludwig Heinrich Karl Graf von Waldersee** (8 tháng 4 năm 1832, Potsdam – 5 tháng 3 năm 1904, Hanover) là một Thống chế của Phổ và