✨Torii

Torii

nhỏ|Cổng torii nổi tiếng tại [[đền Itsukushima theo kiểu Ryōbu.]] Cổng là cổng truyền thống của Nhật Bản thường thấy nhất ở lối vào hoặc trong một đền thờ Thần đạo, tượng trưng cho sự chuyển đổi từ trần thế sang linh thiêng.

Torii xuất hiện tại Nhật Bản sớm nhất là từ giữa thời Heian; điều này có thể xác định một cách đáng tin cậy, được đề cập trong một văn tự viết năm 922.

Từ torii trong tiếng Nhật có thể được nguồn gốc từ từ trong tiếng Ấn Độ cổ Torana, từ này cũng là nguồn gốc của từ tiếng Trung Quốc bài phường.

Nghĩa và cách sử dụng tên gọi torii

nhỏ|trái|Một cổng torii tại lối vào [[Shitennō-ji, một ngôi chùa tại Osaka.]] Chức năng của torii là để đánh dấu lối vào của một chốn linh thiêng. Cũng vì lẽ đó mà con đường dẫn vào đền thờ Thần đạo được gọi là , luôn được mở rộng ra bởi một hoặc nhiều torii, đó cũng là cách dễ nhất để phân biệt một ngôi đền với một ngôi chùa. Nếu sandō đi qua nhiều torii thì cái ở ngoài gọi là . Trong quá khứ torii chắc chắn đã từng được dùng tại lối vào các ngôi chùa. Thậm chí trong hiện tại, nổi bật như chùa Tứ Thiên Vương được xây bởi Thái tử Shotoku - ngôi chùa lâu đời nhất nước Nhật - cũng có một cổng torii trước lối vào. (Cổng torii bằng gỗ nguyên gốc bị đốt cháy vào năm 1294 và được thay thế sau đó bằng một cổng bằng đá.) Nhiều ngôi chùa Phật giáo bao gồm một hoặc nhiều đền thờ Thần đạo dành riêng cho kami bảo hộ của họ ("Chinjusha"), và trong trường hợp này một cổng torii mang tính chất đánh dấu lối vào của đền thờ. Benzaiten là một nữ thần kết hợp có nguồn gốc từ nữ thần Ấn Độ Sarasvati, kết hợp các yếu tố của cả Thần đạo và Phật giáo. Vì lý do này, lễ đường của nữ thần có thể được tìm thấy ở cả các ngôi chùa lẫn các Thần xã, và trong cả hai trường hợp ở phía trước của lễ đường đều được đặt một torii. Benzaiten đôi khi được miêu tả với một biểu tượng torii trên đầu (xem hình bên dưới). Sự kết hợp giữa Phật giáo Nhật Bản và các torii do vậy trở nên lâu đời và bền chặt.

Yamabushi, các tu sĩ khổ hạnh ẩn cư trong núi của Nhật Bản với một truyền thống lâu đời như những chiến binh hùng mạnh được thiên phú cho sức mạnh siêu nhiên, đôi khi sử dụng torii như biểu tượng của họ.

Nguồn gốc của torii

thumb|Nữ thần Phật giáo [[Benzaiten, với biểu tượng torii xuất hiện trên đầu]] Nguồn gốc của torii hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Cho đến giờ có khá nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của torii, nhưng chưa có giả thuyết nào được xem là đúng và được chấp nhận phổ quát. Giả thuyết này hình thành trong các thế kỷ 19 và 20, do sự tương đồng về cấu trúc và tên gọi của hai cửa. Phản đối về ngôn ngữ và lịch sử hiện nay đã xuất hiện, nhưng không có kết luận nào được rút ra. Không giống như bản sao trong văn hoá Trung Quốc, hongsal-mun không có thay đổi nào đáng kể trong thiết kế và luôn luôn được sơn màu đỏ, với "các mũi tên" nằm trên đỉnh của kiến trúc (là nguồn gốc của tên gọi này).

Có một số từ nguyên thực tế khác nhau tồn tại cho từ torii. Theo một trong số chúng, tên này bắt nguồn từ thuật ngữ .

Giả thuyết khác giải thích tên theo nghĩa đen của nó: cánh cổng nguyên bản là nơi để cho chim muông đậu vào. Điều này dựa trên ý nghĩa về tôn giáo của việc chim đậu vào ở văn hoá châu Á, như sotdae (솟대) trong văn hoá Triều Tiên, là những cây sào với một hoặc nhiều con chim bằng gỗ đặt trên đầu của chúng. Thường được tìm thấy theo từng nhóm ở lối vào của làng cùng với các cột trụ totem được gọi là jangseung, chúng là những lá bùa xua đuổi ma quỷ và mang lại cho dân làng may mắn. Các "nơi cho chim đậu" tương tự trong hình thức và chức năng với sotdae cũng tồn tại trong các văn hoá shaman khác ở Trung Quốc, Mông Cổ và Siberia. Mặc dù chúng không giống như torii và phục vụ một chức năng khác, những "nơi cho chim đậu" hiển thị cách mà loài chim trong nhiều nền văn hóa châu Á - được cho là có tính chất ma thuật và tôn giáo, và do đó có thể giúp giải thích nghĩa đen bí ẩn của tên gọi torii ("nơi chim đậu").

Những cây sào được tin là đã hỗ trợ những biểu tượng chim bằng gỗ tương tự với sotdae đã được tìm thấy cùng với các con chim bằng gỗ, và được tin bởi một vài nhà sử học đã bằng cách nào đó phát triển thành kiến trúc torii hiện tại. Một điều thú vị là ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản, các sào đơn đại diện cho các vị thần (kami trong trường hợp Nhật Bản) và - cũng chỉ cây sào - là đơn vị đếm cho kami.

  • Kasagishimaki có thể có một đường cong hướng lên gọi là .
  • Nuki thường được giữ tại chỗ bởi nêm (). Trong nhiều trường hợp, kusabi thuần chỉ mang tính trang trí.
  • Ở giữa nuki, có thể có một thanh chống hỗ trợ gọi là , đôi khi được bao phủ bởi một tấm bảng đề tên của ngôi đền (xem ảnh trong thư viện).
  • Các trụ cột thường chống trên một chi tiết hình vòng bằng đá trắng gọi là hoặc . Chi tiết đá này thỉnh thoảng được thay thế bằng một chi tiết che khuất mang tính trang trí màu đen gọi là .
  • Ở phía trên của các trụ cột có thể có một vòng trang trí gọi là .

Các phong cách

Về mặt cấu trúc, loại đơn giản nhất trong các loại torii là (xem minh hoạ bên dưới). Có lẽ là một trong những loại lâu đời nhất của torii, nó bao gồm hai cây chống với một sợi dây thừng linh thiêng gọi là shimenawa gắn giữa chúng.

Tất cả các loại torii có thể được chia thành hai họ torii, và . Torii của họ thứ nhất chỉ có các chi tiết thẳng, họ thứ hai thì có cả các chi tiết thẳng và cong. Ở dạng đơn giản nhất của nó, tất cả bốn thành tố được làm tròn và những cột trụ không có độ nghiêng. Khi nuki hình chữ nhật trong phần đó, nó được gọi là Yasukuni torii, bắt nguồn từ Thần xã Yasukuni ở Tokyo. Nó được tin là loại torii cổ nhất.

Ise torii

(xem minh hoạ bên trên) là những cánh cổng chỉ xuất hiện ở Nội Cung và Ngoại Cung ở Thần cung Ise ở Mie. Vì lý do này, chúng cũng được gọi là Jingū torii, từ Jingū, tên gọi tiếng Nhật chính thức của Thần cung Ise.

Loại cổng này và phong cách shinmei torii bắt đầu trở nên phổ biến hơn trong những năm đầu thế kỷ 20 tại thời điểm Thần đạo Quốc gia, bởi chúng được coi là lâu đời nhất và uy tín nhất.

Loại torii này là loại đầu tiên được sơn son và được nhận một shimaki ở Kasuga Taisha, đền thờ có tên được đặt cho phong cách này.

Torii của họ myōjin

Myōjin torii và các biến thể của nó được đặc trưng bởi các cây ngang cong.

File:Myoujin torii.svg|**Myōjin torii** - _kasagi_ và _shimaki_ được uốn cong lên trên. File:Nakayama Torii.svg|_Nakayama torii_ - một _myōjin torii_, nhưng _nuki_ không nhô ra từ các cột trụ. File:Inari - daiwa torii.svg|_Daiwa_ hoặc _Inari torii_ - một _myōjin torii_ với các vòng ở phía trên các cột trụ. File:Ryoubu Torii.svg|_Ryōbu torii_ - một _daiwa torii_ với các cột trụ hỗ trợ ở cả hai bên. File:Miwa torii.svg|_Miwa torii_ - một bộ ba _myōjin torii_. File:Usa torii.svg|_Usa torii_ - một _myōjin torii_ không có _gakuzuka_. File:Nune torii.svg|_Nune torii_ - một _daiwa torii_ với một đầu hồi nhỏ phía trên _gakuzuka_. File:Sannou torii.svg|_Sannō torii_ - một _myōjin torii_ với một đầu hồi phía trên _kasagi_. File:Hizen torii.svg|_Hizen torii_ - một phong cách khác thường với một _kasagi_ tròn, và có các cột trụ dày phình ra ở phía dưới.

Thư viện hình ảnh

File:Entrance to Tsurugaoka Hachiman Shrine.jpg|_Myōjin torii_ File:Hiyoshi-taisha03s4592.jpg|_Sannō torii_ File:Hushimi-inari-taisha omotesando.jpg|_Daiwa torii_. Chú ý phần _nemaki_. File:Sumiyoshi Taisha3.jpg|_Sumiyoshi torii_ có các cột trụ với một mặt cắt ngang hình vuông. File:Nakayama Jinja 01.JPG|_Nakayama torii_ File:Itsukushima torii angle.jpg|_Ryōbu torii_ File:Shiraminegu 01.JPG|_Miwa torii_ File:肥前鳥居 059.jpg| có một _kasagi_ tròn và các cột trụ dày phình ra ở phía dưới.

Myōjin torii

, cho đến nay là phong cách torii phổ biến nhất, được đặc trưng bởi các cây ngang cong ở phía trên (kasagishimaki). Cả hai đường đều được làm cong nhẹ lên. Kusabi có xuất hiện trong công trình. Một myōjin torii có thể được làm từ gỗ, đá, bê tông hoặc các vật liệu khác, có thể được sơn son hoặc không sơn.

Nakayama torii

Phong cách , lấy tên từ Thần xã Nakayama ở Okayama, về cơ bản là một myōjin torii, nhưng nuki không nhô ra từ các cột trụ, và phần đường cong tạo bởi hai cây ngang được làm lộ ra nhiều hơn so với bình thường. Torii ở đền Nakayama cao tới 9 m, được xây dựng vào năm 1791. Tên gọi của phong cách bắt nguồn từ mối quan hệ lâu dài với Thần đạo Ryōbu, một dòng tư tưởng trong Chân ngôn tông. Torii nổi tiếng nổi trên mặt nước ở Itsukushima là một ryōbu torii, và đền thờ đó từng là một ngôi chùa của phái Chân ngôn tông, vì vậy mà nó vẫn có một ngôi chùa.

Hizen torii

là một loại bất thường của torii với một kasagi tròn và các cột trụ phình xuống bên dưới. Ví dụ ở thư viện bên dưới là cổng torii chính ở đền Chiriku Hachimangū ở Saga, và là một Tài sản Văn hoá Quan trọng được thành phố chỉ định.

Thư viện hình ảnh

File:NikkoToriiTablet5127.jpg|Một bảng chữ trên một _torii_ ở Nikkō Tōshō-gū bao lấy phần _gakuzuka_ File:Pentagonal kasagi.jpg|Mặt ngũ giác điển hình của một _kasagi_ của _torii_. Chú ý phần _nemaki_ màu đen. File:Yamasa Kamaboko HQ 04.jpg|Một hàng các _torii_ File:Nagasaki One Legged Torii C1946.jpg|_Torii_ có một chân ở Đền Sannō, Nagasaki, Nhật Bản. Nửa còn lại bị đổ do tác hại của bom hạt nhân phát nổ. File:Kamakura-gu-torii.jpg|Một _Nakayama torii_ bất thường với màu trắng và đó File:Nunakumajinja05s1980.jpg|Một _shime torii_ File:Zeniarai Benten Shrine inside.jpg|Các hàng _torii_ nhỏ bằng vàng mã được quyên góp bởi các tín hữu File:Sumiyoshi Taisha Wakamiya Hachimangu1.jpg|Một bất thường ở Thần xã Sumiyoshi: phần _nuki_ không nhô ra và tất cả các bộ phận đều có dạng khối vuông File:Christmas lights and Torii, Sendai 2012.JPG|Một _torii_ tạm thời cho lễ hội đón năm mới ở một khu phố mua sắm được trang trí với đèn Giáng sinh File:Torii_gate.jpg|Một ví dụ của một cổng theo phong cách Hizen.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Cổng _torii_ nổi tiếng tại [[đền Itsukushima theo kiểu Ryōbu.]] Cổng là cổng truyền thống của Nhật Bản thường thấy nhất ở lối vào hoặc trong một đền thờ Thần đạo, tượng trưng cho sự
TIỆM DỆT HỒI ỨC ẨN TRONG SƯƠNG là câu chuyện kể về một tiệm dệt kỳ ảo nằm dưới chân núi quanh năm sương mù, có anh chủ tiệm đẹp trai có khả năng giúp
, là nơi thờ phụng những người lính tử trận vì đã chiến đấu cho Thiên hoàng. Tiền thân của đền thờ này là Tōkyō Shōkonsha (東京招魂社 hay Đông Kinh Chiêu Hồn xã), "đền gọi
phải|Biểu tượng của thần đạo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một thần xã nhỏ **Thần đạo** (tiếng Nhật: 神道 _Shintō_) là tín ngưỡng tôn giáo truyền thống chủ yếu của người Nhật Bản. ## Tín
phải|nhỏ|315x315px| [[Sharaku; Diễn viên Kabuki Bando Zenji (bên trái, vai Benkei) và Sawamura Yodogoro II (bên phải, vai Yoshitsune), trong vở kịch _Yoshitsune Senbon Zakura_ (Yoshitsune of the Thousand Cherry-Trees); tháng 5 năm 1794.]] **_Yakusha-e_**
nhỏ|373x373px| _[[Vườn mơ ở Kameido_ (1857), một trong những bản họa nổi tiếng nhất thuộc bộ tác phẩm _Trăm danh thắng Edo_ của Utagawa Hiroshige. ]] là một bộ tác phẩm in mộc bản, được
nhỏ|263x263px|Một bản họa _benizuri-e, Mitate no Soga: Juro, Goro, and Yoshihide,_ [[Torii Kiyonobu II (khoảng 1744–1751)]] là một loại mộc bản họa _ukiyo-e_ "nguyên thủy" của Nhật Bản. Trong đó màu sắc được sử dụng
là một trường phái hội họa phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XVII tới thế kỷ XIX tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ thể loại hội họa này sản xuất các bản in và
. "Ga" trong tiếng Nhật có nghĩa là "hình ảnh" và "bijin" có nghĩa là người đẹp. Và vì phụ nữ thường đẹp hơn đàn ông, từ bijin có trong hầu hết tất cả các
**Đền Sannō** (山王神社, _Sannō Jinja_, nghĩa đen là _đền thờ Vua trên núi_), nằm cách tâm điểm bom nguyên tử ở Nagasaki khoảng 800m về phía đông nam, được chú ý với cổng Torii bằng
right|thumb|Inari và những tinh linh cáo của họ giúp thợ rèn Munechika rèn nên thanh gươm _kogitsune-maru_ (_Tiểu Hồ_) vào cuối thế kỉ 10. Huyền thoại này là chủ đề của vở kịch [[noh _Sanjo
là một ngôi chùa ở Ōsaka, Nhật Bản. Ngôi chùa này được coi là ngôi chùa đầu tiên và lâu đời nhất Nhật Bản, mặc dù các công trình trong chùa đã được xây dựng
, còn được gọi là hay , là một tòa thành ở Kyoto. Kiến trúc hiện nay là bản mô phỏng năm 1964 của mẫu nguyên gốc do Toyotomi Hideyoshi xây dựng. Việc xây dựng
**Thần xã Itsukushima** (tiếng Nhật: 厳島神社, chữ Rô-ma: Itsukushima Jinja, phiên âm Hán Việt: Nghiêm đảo thần xã) là một đền thờ Thần đạo nằm trên đảo Itsukushima (còn được gọi với tên phổ biến
**_Antocha_** là một chi ruồi hạc trong họ Limoniidae. Nó được Baron Carl Robert Osten-Sacken miêu tả đầu tiên bởi 1860. ## Các loài *Phân chi _Antocha_ Osten Sacken, 1860 :*_A. aciculifera_ Alexander, 1974 :*_A.
là một bộ light novel được viết bởi Torii Nagomu và minh họa do Tomoyo Kamoi thực hiện. Câu chuyện kể về Akihitomột nam sinh trung học mang dòng máu nửa người nửa yêu, và
nhỏ| [[Torii Kiyomasu, Ichikawa Danjūrō I trong vai Takenuki Gorō. Bản họa kịch sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 18 của trường Torii ]] nhỏ| , bởi [[Hokusai Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan ]] thế=|nhỏ|
là một loạt phim truyền hình y khoa của Nhật Bản được phát sóng lần đầu vào tháng 10 năm 2012 trên TV Asahi. Yonekura Ryoko là người đóng vai chính trong loạt phim này.
Toán học trong nghệ thuật: Bản khắc trên tấm đồng mang tên _[[Melencolia I_ (1514) của Albrecht Dürer. Những yếu tố liên quan đến toán học bao gồm com-pa đại diện cho hình học, hình
nhỏ| _[[Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa_, bản họa được biết đến nhiều nhất trong bộ tác phẩm.
(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e
, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1972, là một seiyū người Nhật Bản, hiện đang làm việc cho công ty Aoni Production. Shindō có khả năng đảm nhiệm rất nhiều vai diễn phong phú
là một gia đình daimyo hùng mạnh ở Nhật Bản. Họ là hậu duệ của Thiên hoàng Seiwa (850-880) và là một chi của gia tộc Minamoto (Seiwa Genji) qua gia tộc Nitta. Minamoto no
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
Một **cổng** hoặc **lối vào** là một điểm vào hoặc ra khỏi không gian bị bao quanh bởi các bức tường. Từ này bắt nguồn từ tiếng Na Uy cổ "gat" có nghĩa là đường
là tên một quận thuộc khu Sé của thành phố São Paulo, Brasil. Đây là nơi có cộng đồng người Nhật lớn nhất thế giới bên ngoài nước Nhật và nó tiếp tục phát triển
thumb|Nhật Bản tam cảnh **Nhật Bản tam cảnh** (tiếng Nhật: 日本三景 Nihon Sankei) là ba địa danh danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất của Nhật Bản, có từ năm 1643 và gắn liền với
**Azasetron** là một chất chống nôn hoạt động như một chất đối kháng thụ thể 5-HT3, pK i = 9,27 Nó được sử dụng trong quản lý buồn nôn và nôn do hóa trị ung
phải|nhỏ|[[Hoàng gia huy Nhật Bản|Kamon về Cúc Văn—một bông hoa cúc cách điệu]] phải|nhỏ|_Mon_ của [[Mạc phủ Tokugawa—ba lá thục quỳ trong một vòng tròn]] , còn gọi là , , và , là các
nhỏ| _Ōtani Oniji III trong Vai Người phục vụ Edobei_, in màu _[[nishiki-e_, 1794]] **Tōshūsai Sharaku** (; hoạt động từ 1794 đến 1795) là một họa sĩ thiết kế ukiyo-e Nhật Bản, được biết đến
**Hình tượng con cáo trong văn hóa** xuất hiện trong nhiều nền văn minh nhân loại. Sự đa dạng của các loài dạng cáo đã làm cho hình tượng của chúng hiện diện trong nhiều
là một khu vực trượt tuyết và đi bộ đường dài nằm trong vườn quốc gia Cao nguyên Jōshin'etsu nằm ở vùng cao nguyên Yamanouchi, Nagano, Nhật Bản. Năm 1980, một khu vực rộng 13.000
**_Dã ngoại thảnh thơi_**, hay còn được biết với tên gốc là một bộ manga Nhật Bản do Afro viết và minh họa. Câu chuyện lấy bối cảnh xung quanh tỉnh Yamanashi, Nhật Bản theo
là thành phố thuộc tỉnh Aichi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 384.654 người và mật độ dân số là 990 người/km2. Tổng diện
thumb|Kiyomizu-dera năm 1880, chụp bởi [[Adolfo Farsari]] Tòa kiến trúc chính (_hondo_) của Chùa Kiyomizu treo trên sườn đồi , tên chính thức là là một ngôi chùa độc lập ở phía đông Kyōto, Nhật
, hay là một vị thần trong thần thoại Nhật Bản, và một là vị thần quan trọng trong Thần đạo. Amaterasu không chỉ được coi là vị thần của mặt trời, mà còn là
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
là một daimyo của vùng Satsuma, một danh tướng trong hai thời kỳ Azuchi-Momoyama và Sengoku. Ông là con trai thứ hai của Shimazu Takahisa và là em trai của Shimazu Yoshihisa. Dân gian vẫn
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
là một tỉnh thuộc vùng Kanto của Nhật Bản. Tỉnh lỵ là thành phố Saitama. Đây là tỉnh có dân số đông thứ 5 Nhật Bản và là một phần của vùng đô thị Tokyo,
là một tỉnh của Nhật Bản, nằm ở tiểu vùng Sanyo, vùng Chugoku trên đảo Honshu. Tỉnh lỵ là thành phố Hiroshima. ## Địa lý Hiroshima là thành phố đầu tiên của thế giới phải
nhỏ|phải|Một kiểu cổng tam quan điển hình của kiến trúc dân gian nhỏ|phải|Cổng tam quan chùa Vạn Đức ở Bình Tân **Cổng tam quan** là một loại cổng có ba lối đi thường thấy ở
Dưới đây là danh sách nhân vật trong manga **Kattobi Itto** (かっとび一斗) / **Buttobi Itto** (風飛び一斗) của tác giả Motoki Monma = Cốt truyện = ## Kattobi Itto (Itto - Cơn lốc sân cỏ) Truyện
**Alekseyev I-21** là một loại máy bay tiêm kích phản lực một chỗ, 2 động cơ. Nó được thiết kế và chế tạo ở Liên Xô trong giai đoạn từ năm 1945 tới 1948. ##
**_Usugumo_** (tiếng Nhật: 薄雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Ichiban Ushiro no Daimaou** (いちばんうしろの大魔王, いちばんうしろのだいまおう) là loạt light novel do Mizuki Shotaro thực hiện và minh họa bởi Itō Souichi. Loạt tiểu thuyết được xuất bản bởi Hobby Japan dưới nhãn HJ Bunko thẳng
Long ngọc hình chữ C thuộc văn hóa Hồng Sơn **Văn hóa Hồng Sơn** () là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới ở tại đông bắc Trung Quốc. Các di chỉ thuộc
**_Yagyū Jūbei nanaban shōbu_** (tạm dịch: Yagyū Jūbei 7 phen thắng phụ) là một cuốn tiểu thuyết thời đại của nhà văn Tsumoto Yō, được Bungei Shunju (Văn nghệ xuân thu) xuất bản năm 2004.