✨Trăm danh thắng Edo

Trăm danh thắng Edo

nhỏ|373x373px| [[Vườn mơ ở Kameido (1857), một trong những bản họa nổi tiếng nhất thuộc bộ tác phẩm Trăm danh thắng Edo của Utagawa Hiroshige. ]] là một bộ tác phẩm in mộc bản, được danh họa người Nhật Utagawa Hiroshige thực hiện từ năm 1856 tới 1858. Mặc dù tiêu đề là 100 tác phẩm nhưng trên thực tế có tới 119 bản họa trong đó, tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật in mộc bản. Loạt bản họa thuộc thể loại ukiyo-e, một loại tranh in với những chủ đề phổ thông dành cho tầng lớp trung lưu Nhật Bản đương thời, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Edo (1603-1868). Một số bản họa sau này được hoàn thiện bởi học trò của ông, Utagawa Hiroshige II, đồng thời cũng là con nuôi của sư phụ.

Hiroshige là một bậc thầy phong cảnh, một trong những nghệ sĩ giỏi nhất trong thời đại của mình. Những thắng cảnh nổi tiếng qua con mắt ông đều mang một vẻ trữ tình và giàu cảm xúc, đặc biệt là với thủ đô Edo – nay là Tokyo. Chủ đề của bộ tác phẩm về những địa danh tiêu biểu nhất của thành phố lúc đó, đang được phục dựng lại sau trận động đất kinh hoàng xảy ra vào năm 1855. Tuy nhiên thay vì tái hiện lại sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên, Hiroshige lại cho thấy một thành phố lý tưởng, khơi gợi tâm trạng tích cực và lạc quan trong công chúng lúc đó. Đồng thời, bộ tác phẩm cũng là nguồn tài liệu, cung cấp cho người xem một góc nhìn đương thời với tính thời sự cao, là một cầu nối truyền tải thông tin tái thiết thành phố đến tay mọi người. Theo đó mà các bản hoạ tập trung trình bày về khung cảnh xã hội, phong tục và tập quán của người dân địa phương, kết hợp với những cảnh quan thiên nhiên, các chi tiết về con người và môi trường đều được tiếp cận theo nhiều hướng đa dạng.

Bối cảnh

nhỏ|250x250px| Bản đồ Edo (vào khoảng [[1840). ]] Thời kỳ Edo, Nhật Bản được cai trị bởi Mạc phủ Tokugawa, đất nước lúc này đang thực hiện đóng cửa giao thương đối với thế giới bên ngoài theo chính sách sakoku: những tín đồ đạo Thiên chúa bị đàn áp nặng nề, các thương nhân châu Âu theo đó mà cũng bị trục xuất. Đây là giai đoạn hòa bình và thịnh vượng, kết quả của các cuộc nội chiến xuyên suốt thế kỷ 15 và 16: giữa những năm 1573 và 1603 (Thời kỳ Azuchi-Momoyama), cuối cùng được thống nhất bởi Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu, họ đều là những samurai đã phế bỏ daimyō (lãnh chúa phong kiến) dựng nên một nhà nước tập quyền. Thủ đô được chuyển tới — tên trước đây của thành phố Tokyo. Thành phố từ đây phát triển nhanh chóng, đặc biệt là sau cuộc tái thiết năm 1657 do một trận đại hỏa hoạn gần như phá hủy hoàn toàn mọi thứ. Năm 1725, Edo là thành phố đông dân nhất thế giới với hơn một triệu dân. Vào thời điểm Hiroshige xuất bản loạt tác phẩm, nơi đây có dân số gần hai triệu người được ghi nhận, với diện tích khoảng 80 km².

Dân cư Edo phần đông là tầng lớp trung lưu khá giả; bất chấp hệ thống chư hầu, các ngành nghề thương mại và thủ công mỹ nghệ phát triển mạnh mẽ, góp phần vào sự lớn mạnh nhanh chóng về quyền lực cũng như sức ảnh hưởng của tầng lớp tư sản, đây cũng là nhân tố chính giúp thúc đẩy nghệ thuật đặc biệt là về bản họa, gốm sứ, sơn mài và dệt may. Theo đó mà nghề chạm khắc gỗ cũng nổi lên như một ngành công nghiệp quan trọng tại trung tâm thủ đô, thị trường tiêu thụ của sách chữ và hình minh họa dành cho giới học thức. Ban đầu chúng được in bằng mực đen trên giấy màu thủ công, đến giữa thế kỷ 18 kỹ thuật in màu (nishiki-e) mới xuất hiện. Tập tin:Edo Panorama old Tokyo color photochrom.jpg|Toàn cảnh Edo, năm 1865 hoặc 1866. Chụp bởi Felice Beato.

Thể loại

nhỏ|250x250px| Một [[Gỗ|mộc bản dùng để chế tác tranh khắc gỗ phong cách ukiyo-e. ]] Loại hình nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại phổ biến khác trong nó. Tất cả được phát triển xung quanh điêu khắc, chủ yếu là khắc gỗ theo phong cách truyền thống. Trong đó, những mẩu chuyện hư cấu hoặc từ đời sống thường nhật nơi đô thị ghép nên một vẻ đẹp trữ tình và tinh tế của thời đại. Hòa bình được lập lại sau các cuộc nội chiến kéo dài, kèm theo đó là tầng lớp tư sản ở các thành phố lớn - chủ yếu là ở Edo trỗi dậy mạnh mẽ, phần nhiều đến từ sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ trong thị trường nghệ thuật, đặc biệt là với các bản họa về cuộc sống đô thị, chúng thường mang tới người xem những yếu tố giải trí và thư giãn như: quán trà, geisha, nghệ sĩ kịch kabuki, đô vật sumo, v.v. Bởi đó là khoảng thời gian khi mà những thú vui được coi trọng, mọi thứ dường như đều khiến cuộc sống trở nên dễ chịu. Cảm giác như đang lơ lửng trên những đám mây, bị cuốn theo những khoái cảm, khơi gợi chủ nghĩa khoái lạc trong mỗi con người, do vậy mà chúng được mang tên ukiyo-e: "bức tranh về thế giới nổi". Thể loại này đã đạt thành công lớn với đối tượng hướng đến là tầng lớp trung lưu tại Edo, những con người đã có sẵn gắn bó với cuộc sống và môi trường thành thị, mà giờ đây chúng được miêu tả qua những bản họa đầy tính nghệ thuật và thẩm mỹ, điều đó lại càng làm tăng sự thích thú trong giới công chúng lúc này.

Hishikawa Moronobu được coi là người sáng lập ra thể loại nghệ thuật này, tiếp sau đó là những nghệ sĩ như Okumura Masanobu, Suzuki Harunobu, Isoda Koryūsai và Torii Kiyonobu, người sáng lập ra môn phái Torii. Một số nghệ sĩ chuyên sáng tác về đề tài diễn viên của sân khấu kịch kabuki nổi tiếng tại Nhật Bản – , trong số đó có Torii Kiyomasu, Torii Kiyomitsu và đặc biệt là Tōshūsai Sharaku. Một thể loại khá phổ biến khác là , mô tả những geisha và kỹ nữ trong cảnh tượng vui chơi thân mật, cùng nhiều chi tiết kèm theo như phục trang họa tiết, các nghệ sĩ nổi bật có thể kể đến Torii Kiyonaga, Kitagawa Utamaro và Keisai Eisen. Một biến thể khác là , với nội dung khiêu dâm rõ ràng hơn. Chủ đề phong cảnh lần đầu được giới thiệu bởi Utagawa Toyoharu –người sáng lập trường Utagawa. Đây cũng là nơi Hiroshige từng theo học, ông đã áp dụng những kỹ thuật hội họa từ phương Tây vào phong cảnh Nhật Bản, đồng thời lấy cảm hứng từ những kiệt tác của Katsushika Hokusai.

Tác giả

nhỏ| Bức chân dung tưởng nhớ Hiroshige, do bạn của ông, họa sĩ [[Utagawa Kunisada thực hiện. |365x365px]] (1797-1858) là một trong những đại diện nổi bật cuối cùng của trường phái ukiyo-e. Vào thời kì đầu khi theo học Utagawa Toyohiro, đối tượng sáng tác của ông chỉ giới hạn trong hai thể loại yakusha-e và bijin-ga, sau đó đã chuyển sang bản in phong cảnh. Còn được lấy cảm hứng từ một số trường phái khác như Kanō và Maruyama-Shijō, phong cách của Hiroshige đặc trưng bởi chủ nghĩa hiện thực sắc sảo, tái hiện lại không khí của đời sống thường nhật hay những cảnh quan dân dã, cùng với đó là sự tinh tế khi xử lý thời tiết hay bầu khí quyển, qua đó mà mỗi tác phẩm đều đạt được những tâm trạng rất riêng. Những yếu tố trên đều nhờ vào sự nhạy bén trong nắm bắt, ánh sáng tại các khung giờ khác nhau trong ngày hay những biến đổi của tự nhiên qua các mùa trong năm. Thiên nhiên trong các sáng tác của Hiroshige đều đậm chất trữ tình và khơi gợi cảm xúc. Vẻ đẹp phù du qua đó mà được truyền tải thành công, mang hơi hướng của một chủ nghĩa lãng mạn nhất định kết hợp với sự nắm bắt chính xác. Có thể có một số bài thơ kèm theo, với những nét thư pháp tinh tế cho thấy sự thông thạo ở cả văn học lẫn nghệ thuật của tác giả. Ông tập trung làm việc với từng bộ tác phẩm thay vì bản họa đơn, chẳng hạn như Năm mươi ba trạm nghỉ của Tōkaidō (1833), Những danh thắng của Kyōto (1834), Sáu mươi chín trạm nghỉ của Kisokaidō (1839). Trong suốt sự nghiệp của mình, Hiroshige đã thực hiện khoảng 5.400 mộc bản họa, khiến ông trở thành bậc thầy trong giới ukiyo-e mà không cần bàn cãi.

Sau khi Nhật Bản mở cửa giao thương, các tác phẩm của Hiroshige được đón nhận nồng nhiệt ở phương Tây - vào thời điểm mà chủ nghĩa Nhật Bản cũng đang đồng thời nổi lên. Ông cũng có những ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, điều này được chứng minh qua một số tác phẩm từ những năm 1870 của James Abbott McNeill Whistler, chẳng hạn như Bộ tranh về sông Thames và những bức Tranh đêm. Nó cũng gây ấn tượng mạnh với họa sĩ người Hà Lan Vincent van Gogh, người đã sao chép các tác phẩm khác nhau của Hiroshige, chẳng hạn như Japonaiserie: Cầu trong mưa (1887) – bản sao của bức Mưa đột ngột trên cầu Shin-Ōhashi and Atake - và Japonaiserie: Cây hoa mơ (1887) – bản sao của bức Vườn mơ ở Kameido. Vào năm 1888 Van Gogh có viết: "với đôi mắt của người Nhật, bạn có thể nhìn thấy nhiều hơn; màu sắc như được cảm nhận theo một cách khác." Tập tin:Hiroshige Atake sous une averse soudaine.jpg|Trận mưa đột ngột trên cầu Shin-Ōhashi và Atake (1857), của Utagawa Hiroshige. Tập tin:Van Gogh - Die Brücke im Regen (nach Hiroshige).jpeg|Japonaiserie: Cầu trong mưa (1887), của Vincent van Gogh. Tập tin:De pruimenboomgaard te Kameido-Rijksmuseum RP-P-1956-743.jpeg|Vườn mơ ở Kameido (1857), của Utagawa Hiroshige. Tập tin:Vincent van Gogh - Bloeiende pruimenboomgaard- naar Hiroshige - Google Art Project.jpg|Japonaiserie: Cây Hoa Mơ (dựa theo Hiroshige) (1887), của Vincent van Gogh.

Các tác phẩm của Hiroshige cũng được phổ biến rộng rãi qua tờ tạp chí Le Japon Artistique (1888-1891), do Samuel Bing làm chủ biên.

Trăm danh thắng Edo

Sáng tác và phát triển

Loạt bản họa Trăm danh thắng của Edo được Hiroshige thực hiện từ năm 1856 đến 1858 – tức năm Ansei 3 đến Ansei 5 trong lịch Nhật Bản. Chúng bao gồm tổng cộng 119 bản in về phong cảnh và các địa danh mang tính biểu tượng của Edo – tên cũ của Tokyo. Đây cũng là một trong những dự án được dồn nhiều tâm huyết và cũng là dự án cuối cùng trong sự nghiệp của ông. Với loạt tác phẩm, tác giả cố gắng truyền đạt lại những biến chuyển của Edo vào những năm tháng cuối cùng của nó, đó bao gồm các công cuộc tiến bộ hoá và hiện đại hóa được thúc đẩy mạnh nhằm thế chỗ các phong tục và truyền thống. Vào năm 1853, cuộc phong tỏa trên vùng biển Edo của Tướng quân Mỹ Matthew Perry đã buộc Thiên hoàng phải mở cửa giao thương Nhật Bản với các nước phương Tây. Đến năm 1855, Edo tiếp tục hứng chịu một trận đại động đất (7,1 độ richter), hậu quả tàn khốc với 10.000 người chết và khoảng 16.000 tòa nhà bị phá hủy. Những thay đổi về diện mạo thành phố là mục tiêu mà Hiroshige muốn hướng đến trong sản phẩm của mình.

Vào thời điểm sáng tác, Hiroshige đang ở đỉnh cao của sự nghiệp: năm 1856, khi sáu mươi tuổi, ông thực hiện nghi thức cạo đầu của Phật giáo, xuất gia trở thành nhà sư. Được tài trợ bởi Sakanaya Eikichi, vốn một nhà xuất bản muốn phản ánh những thay đổi của Edo sau trận động đất, Hiroshige hiện thực hóa ý tưởng này trong hơn một trăm góc nhìn từ những địa điểm đẹp cũng như nổi tiếng nhất của thành phố. Trên hết, ông muốn tìm kiếm những hình ảnh mới lạ, cách tiếp cận và những góc nhìn khác thường, chẳng hạn như chúng được chia theo khung dọc hoặc bị che một nửa bởi một vật nào đó chắn giữa phong cảnh và người xem. Loạt tác phẩm này đã được đón nhận nồng nhiệt – mỗi bản họa trong số này đều có 10.000 đến 15.000 bản sao khác được thực hiện. Đáng tiếc rằng, loạt tác phẩm bị giá đoạn do Hiroshige đã qua đời trong một trận dịch tả tại Edo năm 1858. Tuy nhiên, một số bản phác hoạ đã được đệ tử của ông là Utagawa Hiroshige II hoàn thiện về sau.

Bộ tác phẩm này sử dụng định dạng dọc tương tự với loạt bản họa trước đó của Hiroshige, Những thắng cảnh tại hơn sáu mươi tỉnh thành, cho phép tạo ra nhiều thay đổi mới mẻ so với định dạng ngang mà ông từng theo đuổi. Bộ tác phẩm được sáng tác dưới kích cỡ ōban – cỡ lớn, khoảng 39,5 x 26,8 cm, và sử dụng kỹ thuật nishiki-e, một phương pháp áp màu được tạo ra vào thế kỷ 18 (khoảng năm 1765) cho phép tái hiện đa dạng tông màu cho bản họa. Theo quy định của chính phủ, ông phải điều chỉnh các tác phẩm của mình để vượt qua khâu kiểm duyệt – với sắc lệnh năm 1790, quá trình sản xuất của tất cả các tác phẩm đều không được quá xa xỉ, cũng như không chứa tài liệu nhạy cảm về chính trị. Các bản họa được sáng tác trong nhiều giai đoạn: năm đầu tiên (1856) có 37 bản họa; năm 1857, lên đến 71 bản; và vào năm 1858, năm ông mất, là 7 bản. Dự kiến của tác giả và nhà xuất bản sẽ hoàn thành chúng vào tháng 7 năm 1858, với hai bản họa trong tháng này mang tiêu đề Bổ sung thêm của Trăm danh thắng Edo (Edo hyakkei yokyō); tuy nhiên đến tháng sau họ lại tiếp tục xuất bản ba bản họa khác với tiêu đề thông thường. 115 bức tranh khắc gỗ này được hoàn thành vào tháng 10 năm 1858 cùng với ba bản in khác, được các nhà kiểm duyệt phê duyệt sau khi tác giả qua đời, có lẽ các tác phẩm hoàn thiện của Hiroshige II được làm theo yêu cầu của nhà xuất bản. Phần mục lục sau đó được ủy quyền cho Baisotei Gengyo (1817-1880), một nhà thiết kế mục lục nổi tiếng. Cuối cùng, vào năm 1859, Hiroshige II đã làm một bản họa cuối cùng để kỷ niệm việc ông lên chức thầy giáo, được niêm phong trước khi đưa qua cơ quan kiểm duyệt vào tháng 4 năm 1859. Mặc dù tuổi đã cao, ông cũng đã mất đi một sức biểu cảm nhất định so với các bản họa trước, nhưng qua sự nắm bắt tinh tế của tác giả, bộ tác phẩm vẫn giữ được những sắc màu riêng không kém phần mãnh liệt, điều này chứng minh cho mối quan tâm đặc biệt của ông dành cho cảnh vật quê hương. Xuyên suốt loạt bản họa, Hiroshige đã thể hiện được nhiều kỹ thuật mà ông đã học được trong suốt sự nghiệp của mình như: karazuri, một kỹ thuật khắc nâng cao trong đó một tấm gỗ không chứa mực cần in trên giấy, nhằm tạo những đường nét nổi lên bề mặt; atenashi-bokashi, một kỹ thuật trộn chất lỏng với mực rồi trải rộng trên toàn bộ bề mặt, đặc biệt hiệu quả dành cho nước và mây; kimekomi, một kỹ thuật dùng bàn là ép lên giấy để tạo đường nét và đường viền; và kirakake, một kỹ thuật điêu luyện, được làm với hai mộc bản, một bằng màu và một bằng keo xương, sau khi in sẽ được rắc thêm bột mica.

Hiroshige thể hiện phong cảnh qua lăng kính cảm xúc, với một nhãn quan của người nghệ sĩ từ đó mà ông mô tả hiện thực theo góc nhìn chủ quan. Chúng gợi lên sự thấm thoát của thời gian, sự phù du của vẻ đẹp cuộc sống, mà theo lời dạy của Thiền tông về tính vô thường (mujō). Đối với người Nhật, như có một mối liên kết bẩm sinh giữa nghệ thuật và thiên nhiên, mà xuất phát từ đời sống nội tâm, họ cảm nhận chúng bằng một cảm giác u sầu và buồn bã (mono-no-aware, thấu cảm phù du), có thể thấy rõ qua lễ hội Hanami, ca ngợi những bông hoa anh đào đẹp mà sớm tàn. Hiroshige cũng thường tái hiện cảnh vật qua những khung hình khác thường, đôi khi theo phối cảnh tuyến tính của phường Tây, thứ mà ông biết nhưng ít sử dụng, chủ yếu cho việc mô tả các rạp hát kabuki và quang cảnh đường phố. Thứ ông truyền tải cho người xem thấy thường là những hình tượng con người nhỏ bé đắm chìm giữa sự hùng vĩ của thiên nhiên, cùng với những con vật và đồ vật theo từng giai thoại, đôi khi theo một hơi hướng trào phúng và hài hước nhất định, nhưng vẫn luôn dành một sự tôn trọng lớn đối với con người, đời sống và phong tục của tổ tiên để lại.

Nhìn chung, tất cả các bản họa đều gồm ba phần tiêu đề: ở góc trên bên phải, là tên của bộ tác phẩm (Meisho Edo hyakkei), loại chữ giống trên giấy tanzaku với nền màu đỏ; tiếp đến là tên của bản họa đó, hình dạng một mẩu giấy shikishi; và ở góc dưới bên trái cũng có nền màu đỏ, đề tên tác giả, Hiroshige. Bên ngoài khung của bản họa, tại lề dưới bên trái, là con dấu của nhà xuất bản, Sakanaya Eikichi, thường xuyên xuất hiện, đôi khi kèm theo địa chỉ của ông (Shitaya Shinkuromonchō), và cũng có lúc được viết tắt là "Shitaya Uoei" (trong đó Uoei tương ứng với Uoya Eikichi, một tên khác cũng được biết đến). Ngoài khung nhưng ở trên cùng bên phải, thường là vị trí đánh dấu của người kiểm duyệt, aratame (đã kiểm tra), kèm theo ngày tháng, và con giáp theo từng năm: 1856 tức năm của con rồng (tatsu), 1857 tức con rắn (hebi) và năm 1858 tức con ngựa (uma).

Bộ tác phẩm

*Stt*: thứ tự các bản họa; một số bản mùa hạ có cách xếp khác – trong ngoặc đơn. Tiêu đề: giống với trong bản họa, và đã được dịch sang tiếng Việt kèm tiếng Nhật. Cùng với đó là thời điểm xuất bản theo tháng và năm (lịch Nhật Bản trước 1873); các tháng nhuận đánh dấu "i" phía trước. Nội dung: các địa điểm, địa danh xuất hiện trong bản họa cũng như các giai thoại xung quanh nó. Vị trí**: các địa điểm, quận và tọa độ của góc nhìn. *Hình ảnh: hình ảnh của bản họa.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|373x373px| _[[Vườn mơ ở Kameido_ (1857), một trong những bản họa nổi tiếng nhất thuộc bộ tác phẩm _Trăm danh thắng Edo_ của Utagawa Hiroshige. ]] là một bộ tác phẩm in mộc bản, được
Trang này liệt kê các nhân vật của anime và manga _Rurouni Kenshin_/_Samurai X_ và các địch thủ của Kenshin trong seri. ## Nhân vật chính * Himura Kenshin (Kenshin Himura) * Kamiya Kaoru (Kaoru
**Utagawa Hiroshige** (, còn ; (Ca Xuyên Quảng Trùng), ), tên khai sinh: **Andō Hiroshige** ( (An Đằng Quảng Trùng)); 1797–12 tháng 10 năm 1858), là nghệ sĩ ukiyo-e người Nhật Bản và được
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
, tên khác là xây dựng năm 1457 bởi Ota Dōkan; là một thành trì nằm trên địa đài thị trấn Kōji (麹町; Kōji-machi) thuộc quận Chiyoda ở Tokyo (Nhật Bản), thời đó được gọi
**Vườn mơ ở Kameido** (亀戸梅屋舗, Kameido Umeyashiki) là một tranh in khắc gỗ thuộc thể loại ukiyo-e của họa sĩ người Nhật Hiroshige. Tranh được xuất bản vào năm 1857 và là bản in thứ
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
Bộ manga Hunter _×_ Hunter của Yoshihiro Togashi có một hệ thống các nhân vật hư cấu rất rộng lớn. Đầu tiên phải kể đến là Gon, con trai của Hunter nổi tiếng, Ging Freecss.
là nhân vật chính trong manga và bộ anime Gintama của tác giả Sorachi Hideaki, thường được gọi tắt là Gin. Anh là ông chủ của _"Vạn Sự Ốc Gin-chan"_ (hay "Tiệm Vạn Năng", "Dân
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
hay là những tên gọi được dùng để chỉ các cuộc xung đột quân sự giữa Mạc phủ Tokugawa và gia tộc Toyotomi diễn ra xung quanh Thành Ōsaka, bắt đầu từ tháng 12 năm
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
nhỏ|trái|Núi Phú Sĩ và chùa [[Chuurei-tou vào mùa xuân]] nhỏ|trái|Núi Phú Sĩ chụp vào mùa đông. nằm trên đảo Honshu là ngọn núi cao nhất Nhật Bản với độ cao 3.776,24 trên mực nước biển,
là một nữ vương của nước Yamatai, một vùng của nước Yamato cổ đại. Bà còn được gọi là **Thân Ngụy Oa Vương** (親魏倭王; Shingiwaō) - do hoàng đế nước Ngụy phong hiệu. Trong các
**Amakusa 1637** (chữ Nhật: 天草时空旅人; AMAKUSA 1637?) còn được biết đến với tên tiếng Việt là **Anh thư nữ kiệt** là một bộ truyện tranh theo thể loại manga được sáng tác và vẽ bởi
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
là một samurai và vị quan Nhật Bản vào cuối thời Edo, nổi tiếng với vị trí chỉ huy Shinsengumi. ## Tiểu sử Isami, ban đầu lấy tên là Katsugorō, sinh tại Miyagawa Hisajirō, một
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
là một cựu yoriki và là một học giả Tân Nho giáo của học phái Vương Dương Minh ở Osaka. Dù làm việc cho chính quyền, ông đã công khai chống lại chế độ Tokugawa.
**Nhiếp chính** (chữ Hán: 攝政), tiếng Anh gọi là **Regent**, là một hình thức chính trị của thời kỳ quân chủ chuyên chế hoặc quân chủ lập hiến trong lịch sử của nhiều quốc gia
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
nhỏ| _[[Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa_, bản họa được biết đến nhiều nhất trong bộ tác phẩm.
(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e
là thủ đô trên thực tế và là một trong 47 tỉnh của Nhật Bản thuộc vùng Kanto, phía đông của đảo chính Honshu. Đây là nơi đặt Hoàng cung và các cơ quan đầu
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
nhỏ|Koto **Koto** (, đôi khi gọi là **Sō**, là một loại đàn tranh truyền thống của Nhật Bản. ## Lịch sử nhỏ|phải|Một nghệ sĩ đang chơi đàn koto ### Thời cổ đại Cây đàn tranh
là một trường phái hội họa phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XVII tới thế kỷ XIX tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ thể loại hội họa này sản xuất các bản in và
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
,. Sinh ra tại Edo (nay là Tokyo), Hokusai được biết đến nhiều nhất với tư cách là tác giả của loạt tranh in mộc bản , trong đó có tác phẩm "Sóng lừng ngoài
là vị Tướng quân thứ 5 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là em trai của Tokugawa Ietsuna, là con trai của Tokugawa Iemitsu, và là cháu nội của Tokugawa Hidetada. Tsunayoshi nổi
nhỏ|[[Thành Edo|Thành Cổ Edo, nay là Hoàng cung Tokyo]] nhỏ|Bia mộ của [[Bốn mươi bảy Ronin|47 Ronin tại Đền Sengakuji]] nhỏ|[[Cửa Sakuradamon của Thành Edo, nơi Ii Naosuke bị ám sát năm 1860.]] **Lịch sử
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của Nhật Bản cận đại. Ông được xem là người có công mở đầu phong trào canh tân nước Nhật, cổ động dân chúng trút bỏ
nhỏ| _Ōtani Oniji III trong Vai Người phục vụ Edobei_, in màu _[[nishiki-e_, 1794]] **Tōshūsai Sharaku** (; hoạt động từ 1794 đến 1795) là một họa sĩ thiết kế ukiyo-e Nhật Bản, được biết đến
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
, là một thiền giả thi sĩ của thời Edo, Nhật Bản. Ông được thừa nhận là người phát triển những _câu đầu_ (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) có tính hài
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
nhỏ|Saito Hajime (Fujita Goro) là đội trưởng đội 3 Shinsengumi, một trong số ít những thành viên của nhóm còn sống sót sau những cuộc chiến cuối thời Mạc Phủ. ## Thời thơ ấu Saito
**Nigeria** (; phiên âm: "Ni-giê-ri-a"), tên chính thức là **Cộng hòa Liên bang Nigeria** (tiếng Anh: _Federal Republic of Nigeria_) là một quốc gia thuộc khu vực Tây Phi và cũng là nước đông dân
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
là một samurai sống vào cuối thời Edo. Vốn là kiếm sĩ bậc thầy, ông được thiên hạ xưng tụng là một trong bốn sát thủ nổi tiếng nhất của thời kỳ Bakumatsu. Chiêu kiếm
**Kanzashi** (簪 (Trâm)?) là từ chỉ những vật dùng để trang trí cho kiểu tóc truyền thống Nhật Bản. Thuật ngữ "Kanzashi" thường được dùng để chỉ các loại trang sức gắn lên tóc nói
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
**Shinomori Aoshi** (tiếng Nhật: 四乃森 蒼紫 (_Tứ Nãi Sâm Thương Tử_)), theo lối viết phương Tây là **Aoshi Shinomori** trong bản tiếng Anh hay anime, là một "Okashira", hay thủ lĩnh, hư cấu của _Oniwabanshu_
Chữ [[Kanji "Saigō Takamori".]] , nguyên danh là , là một trong những samurai giàu ảnh hưởng nhất trong lịch sử Nhật Bản, sống vào cuối thời kỳ Edo và đầu thời kỳ Minh Trị.
thumb|Kimono thời hiện đại **Kimono** (Kanji: 着物; Kana: きもの; Hán Việt: _"Trước vật"_, nghĩa là _"đồ để mặc"_) hoặc còn gọi là **Wafuku** (和服; わふく; Hán Việt: _"Hòa phục"_, nghĩa là _"y phục Đại Hoà"_),
là một tỉnh của Nhật Bản, nằm ở phía tây đảo Kyushu. Trung tâm hành chính là thành phố Nagasaki. ## Địa lý Tỉnh Nagasaki nằm ở phía Tây Nam của Nhật Bản, thuộc phía
là vị Thiên hoàng thứ 119 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại ông kéo dài từ năm 1780 đến 1817. ## Phả hệ Ông có tên thật là Morohito