thumb|Một văn bản tiếng Sogdia (thế kỷ IX-XIII)
thumb|Tăng lữ [[Mani giáo chép kinh tiếng Sogdia, ở Khocho, bồn địa Tarim, thế kỷ VIII-IX]]
thumb|Một mẫu lụa [[thổ cẩm Sogdia, chừng năm 700.|upright]]
thumb|Người Sogdia dân lễ lên Phật (tranh tường), [[Bezeklik, đông bồn địa Tarim, Trung Quốc, thế kỷ XVIII.]]
Tiếng Sogdia là một ngôn ngữ Iran từng hiện diện ở vùng Sogdia (Sogdiana) miền Trung Á (ứng với lãnh thổ Uzbekistan và Tajikistan ngày nay), và còn là ngôn ngữ trong những cộng đồng người Sogdia nơi nay là mạn viễn tây Trung Quốc. Tiếng Sogdia, cùng với tiếng Bactria, tiếng Saka Khotan, tiếng Ba Tư trung đại, và tiếng Parthia, là một ngôn ngữ quan trọng thời "Iran trung đại". Ngôn ngữ này để lại một lượng lớn văn bản.
Tiếng Sogdia thường được xếp vào nhánh đông bắc trong ngữ chi Iran. Không còn bằng chứng trực tiếp nào về dạng cổ hơn của ngôn ngữ này (tạm gọi là "tiếng Sogdia cổ") sót lại, dù việc Sogdia được nhắc đến trong những bản khắc tiếng Ba Tư cổ cho thấy nó từng tồn tại chí ít từ thời đế quốc Achaemenid (559–323 BCE).
Như tiếng Khotan, ngữ pháp và hình thái tiếng Sogdia nói chung nguyên thủy hơn so với tiếng Ba Tư trung đại. Tiếng Yaghnob là hậu duệ của một phương ngữ tiếng Sogdia thế kỷ XVIII nói ở Osrushana, một vùng nằm phía nam Sogdia.
Văn kiện Sogdia
thumb|Văn bản [[Cảnh giáo|Kitô giáo Sogdia thế kỷ IX-XI viết ở Estrangelo, khám phá ở Turpan.]]
Những mẫu văn thư tiếng Sogdia thu nhặt ở Tân Cương, Trung Quốc khơi mào cho nghiên cứu ngôn ngữ này. Robert Gauthiot (học giả Sogdia đầu tiên) và Paul Pelliot (người mà khi đi di khảo tại Đôn Hoàng thu hồi được văn kiện tiếng Sogdia) là hai người đầu tiên đứng ra nghiên cứu. Gauthiot ra mắt nhiều bài viết nghiên cứu dựa văn kiện của Pelliot, tuy ông qua đời trong Thế chiến thứ I. Một trong những bài viết đáng chú tâm nhất của Gauthiot là một tập từ vựng tiếng Sogdia, đang trong quá trình hoàn thành khi ông mất. Émile Benveniste nối tiếp công việc này sau cái chết của Gauthiot.
Nhiều mẫu văn bản Sogdia được tìm thấy ở Turfan trong những cuộc viễn chinh Turfan của người Đức. Những chuyến viễn chinh này do bảo tàng Dân tộc học Berlin sắp đặt.
Đôn Hoàng và Turfan là hai nơi có nhiều văn kiện Sogdia về Mani giáo, Phật giáo, Kitô hơn cả.
Chữ viết
Giống mọi ngôn ngữ Iran trung đại khác, chữ Sogdia bắt nguồn từ chữ Aram. Như trong chữ Pahlavi, chữ Sogdia kết hợp nhiều chữ tượng hình, tượng ý: nhiều từ tiếng Aram được dùng nhằm thể hiện từ gốc Iran. Chữ Sogdia là tiền thân trực tiếp của chữ Uyghur cổ mà chính nó lại là tiền thân của chữ Mông Cổ.
Như đa số hệ chữ con bắt nguồn từ chữ Sinai nguyên thủy, không có ký hiệu riêng cho nguyên âm. Ba ký hiệu phụ âm (chuyển tự là) ’ y w có thể dùng đại diện cho lần lượt ba nguyên âm dài [a: i: u:]. Có lúc chúng còn biểu thị nguyên âm ngắn (khác với việc nguyên âm ngắn luôn không được viết ra trong chữ Aram).
Ngoài ra, tiếng Sogdia còn được viết bằng chữ Mani, gồm 29 ký tự.
Hình thái học
Nguyên âm
Thân từ "nhẹ"
Thân từ "nặng"
Thân từ rút ngắn
Động từ
Hiện tại
Vị thành
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Một văn bản tiếng Sogdia (thế kỷ IX-XIII) thumb|Tăng lữ [[Mani giáo chép kinh tiếng Sogdia, ở Khocho, bồn địa Tarim, thế kỷ VIII-IX]] thumb|Một mẫu lụa [[thổ cẩm Sogdia, chừng năm 700.|upright]] thumb|Người Sogdia
**Chữ Sogdia** hay **Bảng chữ cái Sogdia** là bộ chữ ban đầu được sử dụng để viết tiếng Sogdia là ngôn ngữ của người Sogdia. Tiếng Sogdia là ngôn ngữ thuộc họ ngôn ngữ
right|thumb|Khu vực có người nói tiếng Yaghnob **Tiếng Yaghnob** là một ngôn ngữ Iran Đông nói trong thung lũng thượng lưu sông Yaghnob ở vùng Zarafshan của Tajikistan. Đây là ngôn ngữ của người Yaghnob
**Tiếng Khwārezm** (Tiếng Khwarezm: , _zβ'k 'y xw'rzm_; còn được gọi là **tiếng Khwarazm**, **tiếng Chorasmia**, **tiếng Khorezm**) là một ngôn ngữ Đông Iran có quan hệ gần gũi với tiếng Sogdia. Ngôn ngữ này
nhỏ|Cung hoàng đạo bằng tiếng Khotan BLI6 OR11252 1R2 1 nhỏ|Những câu thơ tiếng Khotan BLE4 IOLKHOT50 4R1 1 nhỏ|Sách của Zambasta BLX3542 OR9614 5R1 1 **Tiếng Saka** là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn
thumb|[[Thành Cát Tư Hãn và vợ ông, Khả đôn Bột Nhi Thiếp.]] **Khả đôn** (chữ Hán: 可敦; ), còn gọi **Khả tôn** (可孙), **Khả hạ đôn** (可贺敦) hay **Cáp đồn** (哈屯), là một tước hiệu
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Bảng chữ cái Duy Ngô Nhĩ** là một ký tự chữ cái của tiếng Duy Ngô Nhĩ, một trong số ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Turk và được nói tại Tân Cương, một khu vực
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
**Chữ Hungary cổ** (, 'székely-magyar runiform' hoặc ) là một hệ thống bảng chữ cái được dùng trong tiếng Hungary. Tiếng Hungary hiện đại được sử dụng dựa theo bảng chữ cái Hungary với gốc
**Parangang** là một đơn vị đo có tính lịch sử của Iran về khoảng cách lưu động, chiều dài thay đổi tùy theo địa hình và tốc độ di chuyển. Đơn vị ương đương của
**Naan**, **nan** () hay **khamiri** là một loại bánh mì cắt lát chứa bột nở, nướng lò thịnh hành trong ẩm thực tại các quốc gia vùng Trung Đông, Trung Á và Nam Á. ##
**Chữ Pahlavi**, **bảng chữ cái Pahlavi** hay **chữ Pahlevi** là một dạng chữ đặc biệt, là dạng viết ngôn ngữ Iran trung đại khác nhau. Những đặc điểm cốt yếu của Pahlavi là * là
**Theta Ophiuchi** (**θ Oph**, **θ Ophiuchi**) là một hệ đa sao trong chòm sao xích đạo Xà Phu (Ophiuchus). Nó nằm trên "bàn chân phải" của người cầm con rắn, ngay phía tây nam của
**Bukhara** (Uzbek Latin: __; Uzbek Cyrillic: _Бухорo_; Ba Tư: _بخارا_) là thành phố thủ phủ của tỉnh Bukhara thuộc Uzbekistan. Nó nổi tiếng là nơi giàu có các di tích lịch sử với khoảng 140
**Shakhrisabz** ( ; ; (thành phố xanh / thành phố xanh tươi); ); tiếng Nga: Шахрисабз), là một thành phố nằm ở tỉnh Qashqadaryo, miền nam Uzbekistan, nằm cách khoảng 80 km về phía nam của
nhỏ|Người Túc Đặc, được miêu tả trên một bia [[Bắc Tề Trung Quốc, khoảng năm 567-573 SCN.]] **Sogdiana** hoặc **Sogdia** (tiếng Ba Tư cổ: _Suguda-_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Σογδιανή, _Sogdianē_; tiếng Ba Tư:
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Nhóm ngôn ngữ Đông Iran** là một nhóm con của ngữ chi Iran nổi lên trong thời Iran Trung cổ (từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên). Tiếng Avesta thường được phân loại là
**Crateros** (tiếng Hy Lạp: Κρατερός, 370 TCN - 321 TCN) là một tướng lĩnh Macedonia dưới quyền Alexandros Đại đế và một trong những Diadochi. Ông là con trai của một nhà quý tộc Macedonia
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
**Di dân Turk** đề cập đến việc di dân của Các dân tộc Turk và sự lan truyền của tiếng Thổ đến Trung Á, Đông Âu và Tây Á, diễn ra chủ yếu giữa thế
**Tào** (chữ Hán: 曹, Bính âm: Cao) là một họ của người Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 조, Romaja quốc ngữ: Jo). Tại Trung Quốc họ này đứng thứ 26 trong danh
**Pezhetairoi** (tiếng Hy Lạp: πεζέταιροι) là lực lượng nòng cốt của quân đội Macedonia và các vương quốc Diadochi. Họ được gọi trong thơ văn là " Chiến hữu bộ binh" (trong tiếng Hy Lạp
**Bảng chữ cái Duy Ngô Nhĩ cổ** là bộ chữ dùng để viết tiếng Duy Ngô Nhĩ cổ, một biến thể của tiếng Turk cổ được nói ở Turpan (Turfan) và Cam Túc, là tổ
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
Tranh khảm mô tả [[Trận Issus]] **Quân đội Macedonia** hay **Quân đội của Macedon** ở đây được hiểu là đội quân của Vương quốc Macedon cổ đại. Nó được coi là một trong những lực
**Các dân tộc Iran** hay **các dân tộc Iranic** là nhóm dân tộc ngôn ngữ Ấn-Âu đa dạng, được xác định theo việc sử dụng các ngôn ngữ Iran và các điểm tương đồng văn
**Euthydemos I** (Tiếng Hy Lạp: ; sinh khoảng năm 260 TCN – mất khoảng năm 200/195 TCN) là vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria, theo nhà sử học Polybios thì ông đã cai trị vào
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Chữ Mani** hay **Bảng chữ cái Mani** là hệ thống chữ viết dựa trên abjad bắt nguồn từ dòng chữ Semit và gắn liền với sự truyền bá của Mani giáo từ Tây Nam đến
thumb |[[Ferdowsi's __]] **Iran học** ( __, theo tiếng Anh là _Iranology_ hoặc _Iranistics_), là một lĩnh vực liên ngành liên quan đến nghiên cứu về lịch sử, văn học, nghệ thuật và văn hóa