✨Tiếng Newar

Tiếng Newar

phải|nhỏ|225x225px|Một dòng chữ Newar Cổ điển khắc đá tại Quảng trường Bhaktapur Durbar.|liên_kết=Special:FilePath/Prachalit.JPG nhỏ|200x200px|Bản khắc bằng đồng tại [[Swayambhunath, năm Nepal Sambat 1072 (1952 Công nguyên).]] Tiếng Newar (hay Nepal Bhasa नेपाल भाषा, hoặc Newari) được biết đến chính thức ở Nepal là Nepal Bhasa, là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, là một ngôn ngữ được sử dụng phổ biến ở Nepal. Ngôn ngữ này cũng được sử dụng ở Ấn Độ, đặc biệt là ở Sikkim. Tiếng Newari là ngôn ngữ mẹ đẻ của 3% dân số Nepal. Đây là một trong khoảng hơn 400 ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Ngôn ngữ này được sử dụng chủ yếu bởi người Newar-cư dân bản địa của Nepal Mandala, bao gồm thung lũng Kathmandu và các vùng lân cận ở Nepal.

Mặc dù "Nepal Bhasa" có nghĩa đen là "ngôn ngữ Nepal", nhưng ngôn ngữ này khác với tiếng Nepal (Devanāgarī: नेपाली), ngôn ngữ chính thức của Nepal. Hai ngôn ngữ này thuộc 2 ngữ hệ khác nhau (tiếng Nepal thuộc ngữ hệ Ấn-Âu, trong khi tiếng Newar thuộc ngữ hệ Hán-Tạng), nhưng qua nhiều thế kỷ tiếp xúc đã có một lượng đáng kể các từ vựng được chia sẻ. Cả hai đều là ngôn ngữ chính thức tại Thủ đô Kathmandu.

Tiếng Newar là ngôn ngữ hành chính của Nepal từ thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 18. Từ đầu thế kỷ 20 cho đến khi dân chủ hóa, tiếng Newar đã phải chịu sự đàn áp. Từ năm 1952 đến năm 1991, tỷ lệ phần trăm người nói tiếng Newar ở Thung lũng Kathmandu giảm từ 75% xuống còn 44%, và ngày nay văn hóa và ngôn ngữ "Nepal Bhasa" đang bị đe dọa. Ngôn ngữ này được UNESCO liệt kê là "mức độ nguy cấp rất cao".

Tên gọi

Các tên gọi Nepālabhāṣā (Devanagari: नेपालभाषा) hoặc Nepālavāc (Devanagari: नेपालवाच) lần đầu được tìm thấy trong các bản thảo của [http://catalogue.ngmcp.uni-hamburg.de/wiki/A_1160-6_%28M%C4%81navadharma%C5%9B%C4%81stra%29N%C4%81radasa%E1%B9%83hit%C4%81 một bài phê bình cho Nāradasaṃhitā], năm 1380 Công nguyên, và [http://cudl.lib.cam.ac.uk/view/MS-ADD-01698/1 một bài phê bình cho Amarkośa], năm 1386 Công nguyên. Kể từ đó, tên này đã được sử dụng rộng rãi trên các bản khắc, bản thảo, tài liệu và sách. Tên gọi thông dụng nhất là "Newah Bhay" (Devanāgarī: रेवा: भाय, IAST: Nevāḥ Bhāy).

Vào những năm 1920, tên của ngôn ngữ được gọi là Khas Kura, Gorkhali hoặc Parbatiya đã được đổi thành "Nepali", và ngôn ngữ nàyữ bắt đầu được gọi chính thức là tiếng Newar trong khi người Newar tiếp tục sử dụng thuật ngữ gốc. Ngược lại, thuật ngữ Gorkhali trong quốc ca cũ mang tên "Shreeman Gambhir" đã được đổi thành "Nepali" năm 1951.

Vào ngày 8 tháng 9 năm 1995, sau nhiều năm vận động hành lang để sử dụng tên cũ, chính phủ đã quyết định rằng tên Nepal Bhasa nên được sử dụng thay vì Newar. Tuy nhiên, quyết định này không được thực hiện và vào ngày 13 tháng 11 năm 1998, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành một chỉ thị khác để sử dụng tên Nepal Bhasa thay vì Newar. Tuy nhiên, Cục Thống kê Trung ương đã không làm điều đó.

Phân bố

Theo điều tra dân số năm 2001, tiếng Newar được nói bởi hơn một triệu người ở Nepal.

  • Ở Nepal: Thung lũng Kathmandu (kể cả Kathmandu, Lalitpur, Bhaktapur và Madhyapur Thimi), Dolakha, Banepa, Dhulikhel, Bandipur, Bhimphedi (Makwanpur), Panauti, Palpa, Trishuli, Nuwakot, Bhojpur, Chitlang, Narayangarh, Chitwan.
  • Ở Ấn Độ: Tây Bengal
  • Ở Tây Tạng: Khasa

Với sự di cư ngày càng tăng, nhiều tổ chức và cộng đồng người nói tiếng Newar đã xuất hiện ở các quốc gia như Mỹ, Anh, Úc và Nhật Bản.

Hệ thống chữ viết

nhỏ|200x200px| Dòng chữ của vua Pratap Malla tại Quảng trường Kathmandu Durbar năm 1654 CN viết bằng chữ Nepal Lipi. nhỏ|200x200px| Bánh xe cầu nguyện với câu thần chú "Om Mani Padme Hum" bằng chữ Ranjana tại Swayambhu, Kathmandu. Tiếng Newar hiện nay hầu như được viết bằng chữ Devanagari. Chữ viết ban đầu được sử dụng là Nepal Lipi hoặc "chữ Nepal" rơi vào tình trạng không sử dụng khi việc viết tiếng Newar bị cấm vào đầu thế kỷ 20.

Nepal Lipi, còn được gọi là Nepal Akha, xuất hiện vào thế kỷ thứ 10. Qua nhiều thế kỷ, một số biến thể của Nepali Lipi đã xuất hiện.

Nepal đã được viết bằng nhiều dạng của abugida:

  • Chữ Brahmi
  • Chữ Gupta
  • Chữ Kutila
  • Chữ Prachalit
  • Chữ Ranjana
  • Chữ Bhujinmol
  • Chữ Kunmol
  • Chữ Kwenmol
  • Chữ Litumol
  • Chữ Hinmol
  • Chữ Golmol
  • Chữ Pachumol
  • Chữ Devanagari

Devanagari là chữ viết được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay vì nó phổ biến ở Nepal và Ấn Độ. Chữ Ranjana là chữ viết được sử dụng rộng rãi nhất để viết tiếng Nepal Cổ điển trong thời cổ đại. Nó đang trải qua một sự hồi sinh do sự gia tăng nhận thức văn hóa gần đây. Chữ Prachalit cũng được sử dụng. Tất cả được sử dụng để viết tiếng Nepal nhưng dạng chữ Devanagari có nguồn gốc từ một dạng chữ gọi là chữ Nepal.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|225x225px|Một dòng chữ Newar Cổ điển khắc đá tại Quảng trường Bhaktapur Durbar.|liên_kết=Special:FilePath/Prachalit.JPG nhỏ|200x200px|Bản khắc bằng đồng tại [[Swayambhunath, năm Nepal Sambat 1072 (1952 Công nguyên).]] **Tiếng Newar** (hay **Nepal Bhasa** नेपाल भाषा, hoặc **Newari**)
**Tiếng Nepal** (नेपाली) là ngôn ngữ của người Nepal và là ngôn ngữ chính thức trên thực tế của Nepal. Tiếng Nepal là một thành viên của ngữ chi Ấ́n-Arya thuộc ngữ tộc Ấ́n-Iran của
phải|nhỏ|250x250px| Các nhóm dân tộc được chọn của Nepal; Bhotia, Sherpa, Thakali, Gurung, Kirant, Rai, Limbu, [[Tiếng Newar|Nepal Bhasa, Pahari, Tamang (lưu ý rằng các lãnh thổ của Kulu Rodu (Kulung) bị đánh dấu nhầm
**Nepal** (phiên âm tiếng Việt: Nê-pan; ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal** ( ), là một quốc gia nội lục tại Nam Á. Dân số quốc gia Himalaya
phải|nhỏ| Một làng bên núi của người Tamang phải|nhỏ| Các dân tộc thiểu số ở Nepal **Người Tamang** là một dân tộc thiểu số ở Nepal. Họ nói tiếng Tamang (gốc Tây Tạng - Miến
**Thung lũng Kathmandu** (Nepal: काठमाडौं उपत्यका, Nepal Bhasa: स्वनिगः và cũng được viết là नेपाः गाः) trong lịch sử còn được biết đến là **Thung lũng Nepal** hoặc **Thung lũng Nepa** là một thung lũng
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Swayambhu** (Devanagari: स्वयम्भू स्तूप; ; đôi khi được gọi là **Swayambu** hoặc **Swoyambhu**) là một kiến trúc tôn giáo cổ xưa trên đỉnh một ngọn đồi trong Thung lũng Kathmandu, phía tây của thành phố
nhỏ|_Chhaang_ tại Nepal được ủ từ gạo **Chhaang** hoặc **chang** ( ཆང་, tiếng Newar: थो, tiếng Nepal: छ्याङ) là một loại thức uống có cồn có nguồn gốc từ Nepal và Tây Tạng. Loại đồ
**Chữ Devanagari**, từ ghép của "Deva" (देव) và "Nagari" (नगर), cũng được gọi là **Nagari** (nguyên là tên của hệ thống chữ viết là khởi nguồn của chữ Devanagari) là một hệ thống chữ cái
**Nhóm ngôn ngữ Tạng-Kanaur** hay **ngữ quần Tạng-Kanaur**, còn được gọi là **ngữ quần Bod**, **ngữ quần Bod-Himalaya**, **ngữ quần Tạng-Himalaya** (藏-喜马拉雅语群) và **ngữ quần Tạng-Miến Tây**, là một cấp phân loại trung gian được
**Tara** (zh. 多羅, sa. _tārā_, Tara, Drolma, bo. _sgrol-ma_ སྒྲོལ་མ་) từ tiếng Phạn T_ārā_, là tên của một vị nữ Bồ Tát thường gặp trong Phật giáo Tây Tạng. Tên này dịch ý là **Độ
nhỏ|Pháo bông và đèn hoa lễ Diwali tại [[Amritsar]] **Diwali** (Đi-va-li) (; **Deepavali**, IAST: _Dīpāvalī_) là một lễ hội quan trọng trong văn hóa Ấn Độ Giáo. Đây là một lễ hội Hindu cổ đại.
**Quảng trường Hoàng cung Patan** nằm ở trung tâm thành phố Lalitpur, Nepal. Đây là một trong ba quảng trường Hoàng cung nằm tại Thung lũng Kathmandu, tất cả đều là một phần của Di
**Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Nepal** là một trong những quyền tiến bộ nhất ở châu Á. Hiến pháp Nepal công nhận quyền LGBT
**Khối núi Annapurna** (tiếng Sanskrit, Nepal, Newar: अन्नपूर्णा) Annapurna (Phạn ngữ, Nepal, Newar: अन्नपूर्णा) là một khối núi ở dãy Himalaya ở miền trung bắc Nepal, bao gồm một đỉnh cao hơn 8.000 mét (26.000 ft),
**Bánh nướng chảo**, dịch từ **pancake** trong tiếng Anh, hay **bánh phèng la**/ **phèn la** trong tiếng Việt, là một loại bánh phẳng được chế biến từ bột làm từ tinh bột có thể chứa
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Darjeeling** () là một thành phố thuộc bang Tây Bengal của Ấn Độ. Nó nằm trên dãy Mahabharata (còn gọi là dãy Tiểu Himalaya) ở độ cao . Nó nổi danh nhờ nền công nghiệp