✨Thời kỳ Jōmon

Thời kỳ Jōmon

Thời kỳ Jōmon (縄文時代 Jōmon-jidai "Thằng Văn thời đại"), hay còn gọi là thời kỳ đồ đá mới ở Nhật Bản

Sơ kỳ Jomon (10000 – 4000 TCN)

Vào khoảng thời gian cách đây hơn 10.000 năm lãnh thổ Nhật Bản và đất liền nối nhau ở phía nam qua Hàn Quốc và phía bắc qua Hokkaido và Sakhalin, tạo thành một biển nội địa ở giữa. Những khu định cư ổn định xuất hiện vào khoảng năm 10.000 TCN tương ứng với nền văn hóa đồ đá giữa hoặc, theo một số tranh cãi, văn hóa đồ đá mới, nhưng mang những đặc điểm của cả hai nền văn hóa đó. Những tổ tiên xa của tộc người Ainu của Nhật Bản hiện đại, những thành viên đa dạng của nền văn hóa Jomon (10.000 – 300 TCN) để lại những di chỉ khảo cổ rõ ràng nhất. Nền văn hóa này cùng thời với các nền văn minh Lưỡng Hà, văn minh sông Nil, và văn minh thung lũng Indus. Trong thời gian này, không có dấu hiệu rõ ràng của việc trồng trọt, mãi cho đến giữa thiên niên kỷ 1 TCN như kê, kiều mạch, cây gai dầu. cũng như những dụng cụ bằng đá sớm nhất. Những di tích cổ này được phát hiện lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai bằng phương pháp phóng xạ carbon. Tuy nhiên, một số học giả Nhật Bản cũng tin rằng kỹ thuật sản xuất đồ gốm được phát minh đầu tiên ở lục địa châu Á vì ở những khu vực nay là Trung Quốc và Nga đã sản xuất ra đồ gốm lâu đời ngang với, nếu không là lâu đời hơn đồ gốm ở hang Fukui. Người thời Jomon đã chế tác ra những vật dụng và các bình gốm được trang trí bởi những họa tiết tinh vi làm bằng cách ép đất sét ướt với các sợi dây hoặc các que gỗ được tết lại hoặc không được tết lại.

Những đặc điểm của văn hóa đồ đá mới

Việc chế tác đồ gốm cho thấy một đời sống ổn định hơn bởi lẽ đồ gốm rất dễ vỡ và do đó nói chung là vô ích với các hoạt động săn bắt hái lượm vốn phải di chuyển liên tục. Do đó, người Jomon có thể là những người đầu tiên sống định cư, hoặc ít ra là bán định cư, trên thế giới. Họ dùng các công cụ bằng đá mài, bẫy và cung tên, và có lẽ là những người sống nửa theo kiểu săn bắt hái lượm, nửa theo kiểu định cư, đồng thời là những tay đánh bắt cá ở bờ biển và lặn sâu khéo léo. Người Jomon có tiến hành một số hoạt động nông nghiệp sơ khai và sống trong những hố đất nhỏ hoặc những ngôi nhà dựng trên mặt đất, để lại nhiều bằng chứng quan trọng cho nghiên cứu khảo cổ học. Vì vậy, những hình thức canh tác đầu tiên của loài người có thể đã xuất hiện ở Nhật Bản vào năm 10.000 TCN, hai nghìn năm trước khi nó lan rộng và trở nên phổ biến ở Trung Cận Đông. Tuy nhiên, một số bằng chứng khảo cổ học khác cũng cho thấy đã có hoạt động nông nghiệp diễn ra trên những ngọn đối và thung lũng ở vùng Fertile Crescent ở vùng nay là Syria, Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq vào khoảng 11.000 năm TCN.

Dân số gia tăng

Một bình gồm thuộc trung kỳ Jomon ([[3000 TCN|3000 - 2000 TCN) tên là kaen doki (bình đất nung lửa), Bảo tàng quốc gia Tokyo, Nhật Bản]] Nền văn hóa bán định cư đã dẫn đến việc gia tăng dân số nhanh chóng khiến Jomon trở thành một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất thế giới vào thời bấy giờ. Một nghiên cứu di truyền học của Cavalli – Sforza đã cho thấy sự mở rộng của một mẫu di truyền điển hình từ vùng biển Nhật Bản sang vùng còn lại của Đông Á. Đây là sự di chuyển gene quan trọng thứ ba của vùng Đông Á (xếp sau "Cuộc di chuyển lớn" từ lục địa châu Phi và cuộc di chuyển gene thứ hai từ vùng bắc Siberia). Sự di chuyển này cũng đã dẫn đến sự mở rộng về mặt địa lý của loài người trong thời Jomon. Nghiên cứu này còn đi xa hơn trong việc đưa ra giả thuyết rằng sự mở rộng của loài người trong thời Jomon thậm chí đã vươn đến châu Mỹ theo con đường dọc bờ biển Thái Bình Dương. Các tính toán cho thấy rằng vào khoảng thời gian cách đây 10.000-4.500 năm, dân số Nhật Bản tăng ổn định khoảng 1% mỗi năm và đạt mức cực đại khoảng 260.000 người cách đây 4.000 năm, các khu vực tập trung đông dân cư nhất là Kanto và Chubu. Sau đó là thời kỳ khí hậu lạnh đi làm tốc độ tăng dân số giảm.

Những giai đoạn chính

Tiền Jomon (10000 – 7500 TCN)

  • Các đường vẽ trên vách đá;
  • Các dấu vết vẽ bằng móng tay;
  • Các đường trang ký hình xoắn thừng;
  • Muroya hạ.

Sơ kỳ Jōmon (7500 - 4000 TCN)

  • Igusa;
  • Inaridai;
  • Mito;
  • Hạ Tado;
  • Thượng Tado;
  • Shiboguchi;
  • Kayama.

Từ đầu đến cuối thời Jomon (4000 – 400 TCN)

Nhiều di tích khai quật được trong giai đoạn này cho thấy thời kỳ đầu và trung kỳ Jomon đã diễn ra một sự bùng nổ về dân số. Hai thời kỳ này tương ứng với thời tiền sử Holocene Climatic Optimum (từ 4000 đến 2000 TCN) khi nhiệt độ cao hơn bây giờ vài độ C và mực nước biển cao hơn từ 2 đến 3 mét. Những di chỉ đồ gốm mang tính nghệ thuật cao, như các bình gốm nung lửa có trang trí, được tìm thấy trong gian đoạn này. Sau năm 1500 TCN, thời tiết trở nên lạnh hơn và dân số có lẽ đã giảm xuống nhanh chóng bởi lẽ người ta tìm thấy ít di chỉ khảo cổ tương ứng với giai đoạn 1500 năm TCN hơn nhiều so với trước đó.

Vào cuối thời Jomon, theo nghiên cứu khảo cổ học, một thay đổi quan trọng đã diễn ra. Các hình thức nông nghiệp sơ khai đã phát triển thành việc canh tác trên các ruộng lúa và xuất hiện sự kiểm soát của chính quyền. Rất nhiều nhân tố văn hóa Nhật Bản có thể khởi nguồn từ thời kỳ này và phản ánh lại những cuộc di cư từ phía nam lục địa châu Á và phía nam Thái Bình Dương. Trong những nhân tố này có các truyền thuyết về Thần đạo, các tục lệ hôn nhân, các phong cách kiến trúc và những phát triển về kỹ thuật như đồ sơn mài, những cây cung được kéo mỏng, kỹ thuật chế tác đồ kim loại và đồ thủy tinh.

Những giai đoạn chính

Jomon thời kỳ đầu (4000 – 3000 TCN)

  • Hạ Hanazumi;
  • Sekiyama;
  • Kurohama;
  • Morois;
  • Juusanbodai.

Trung kỳ Jomon (3000 – 2000 TCN)

  • Katsusaka/Otamadai;
  • Kasori E1;
  • Kasori E2.

Hậu kỳ Jomon (2000 – 1000 TCN)

  • Shyomyouji;
  • Horinouchi;
  • Kasori B1;
  • Kasori B2;
  • Angyo 1.

Cuối thời Jomon (1000 – 400 TCN)

  • Angyo 2;
  • Angyo 3.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời kỳ Jōmon** (縄文時代 Jōmon-jidai "Thằng Văn thời đại"), hay còn gọi là **thời kỳ đồ đá mới ở Nhật Bản** ## Sơ kỳ Jomon (10000 – 4000 TCN) Vào khoảng thời gian cách đây
**Thời kỳ Yayoi** (kanji: 弥生時代, rōmaji: Yayoi jidai, phiên âm Hán-Việt: Di Sinh thời đại) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản từ khoảng năm 300 TCN đến năm 250. Thời kỳ Yayoi
**Thời kỳ Heian** (, _Heian-jidai_, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là
phải|nhỏ|Nhật Bản ở [[thời kỳ băng hà cuối cùng, hậu kỳ thế Pleistocen khoảng 20.000 năm trước Viền đen thể hiện Nhật Bản ngày nay]] ở Nhật Bản bao trùm thời kỳ khoảng 100.000 đến
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
thumb|Jōmon Sugi, nằm trên đảo [[Yakushima, là cây lâu đời nhất và lớn nhất của _liễu sam Nhật Bản_. Việc phát hiện ra cây vào năm 1968 đã "châm ngòi cho những động thái bảo
là một địa điểm khảo cổ bao gồm nhiều tàn tích của những khu sinh hoạt lớn và khu định cư liền kề có từ thời Jōmon. Di chỉ này thuộc thành phố Hakodate ở
**Thời đại Đồ đá** hay **Paleolithic** là một thời kỳ tiền sử kéo dài mà trong giai đoạn này đá đã được sử dụng rộng rãi để tạo ra các công cụ có cạnh sắc,
**Thời đại đồ đá giữa** (tiếng Anh là _Mesolithic_ có gốc từ tiếng Hy Lạp: mesos "giữa", lithos "đá") là một giai đoạn của thời đại đồ đá, một khái niệm khảo cổ được sử
còn gọi là _Kamuyamato Iwarebiko_; tên thánh: _Wakamikenu no Mikoto_ hay _Sano no Mikoto_, sinh ra theo ghi chép mang tính thần thoại trong Cổ Sự Ký vào 1 tháng 1 năm 711 TCN, và
thumb|upright=1.25|Hình vẽ trên các tấm sừng hươu **Thời tiền sử** là giai đoạn trong lịch sử loài người bắt đầu từ khi tông Người sử dụng những công cụ bằng đá đầu tiên khoảng 3,3
là một nữ vương của nước Yamatai, một vùng của nước Yamato cổ đại. Bà còn được gọi là **Thân Ngụy Oa Vương** (親魏倭王; Shingiwaō) - do hoàng đế nước Ngụy phong hiệu. Trong các
**Vương quyền Yamato** (tiếng Nhật: ヤマト王権) là tổ chức chính trị, quyền lực chính trị được hình thành trên cơ sở liên minh giữa một số thị tộc có thế lực, đã nắm ngôi vua
**Lịch Holocen**, còn được gọi là **Kỷ nguyên Holocen** hay **Kỷ nguyên Loài người** ( - **HE**), là một hệ thống đánh số năm thêm vào cách đánh số năm phổ biến hiện nay (AD/BC
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
nhỏ|[[Gốm Bát Tràng]] nhỏ|Một thợ gốm tại nơi làm việc ở [[Morena, Ấn Độ ]] nhỏ|Đồ gốm từ [[Vùng đất Székely|Székely Land, Romania, được bán ở Budapest.]] **Đồ gốm** là các sản phẩm chứa đựng
là một bảo tàng nghệ thuật ở Công viên Ueno thuộc phường Taitō của Tokyo, Nhật Bản. Đây là một trong bốn bảo tàng điều hành bởi Viện Di sản Văn hóa Quốc gia (ja:
là một đảo thuộc quần đảo Ōsumi, Nhật Bản. Hòn đảo có diện tích với dân số dân số 13.178 người. Về mặt hành chính, hòn đảo là thị trấn Yakushima, bao gồm cả hòn
**Các dân tộc bản địa châu Mỹ** (**thổ dân châu Mỹ** hay **người Anh-điêng**, ở Việt Nam còn gọi là **người da đỏ** để chỉ dân bản địa ở Hoa Kỳ mà bắt nguồn từ
**Ngọc** (), **ngọc thạch** hay **ngọc bích** là một thuật ngữ chung cho hai loại đá trang trí khác nhau được sử dụng làm đồ trang sức hoặc đồ trang trí. Ngọc thường được gọi
**Kanzashi** (簪 (Trâm)?) là từ chỉ những vật dùng để trang trí cho kiểu tóc truyền thống Nhật Bản. Thuật ngữ "Kanzashi" thường được dùng để chỉ các loại trang sức gắn lên tóc nói
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Tỳ linh Nhật Bản** ( _Nihon kamoshika_, , danh pháp hai phần: _Capricornis crispus_) là một loài động vật có hình dạng nửa giống dê nửa giống linh dương, thuộc lớp thú guốc chẵn. Địa
Thành phố **Kamakura** (tiếng Nhật: 鎌倉市 _Kamakura-shi_; Hán-Việt: _Liêm Thương thị_) là một đơn vị hành chính cấp hạt của Nhật Bản thuộc tỉnh Kanagawa. Thành phố này được thành lập từ năm 1939. Tuy
nhỏ|Kombu khô nhỏ|Kombu khô được bán trong một siêu thị Nhật Bản **_Kombu_** (từ ) là tảo bẹ ăn được chủ yếu từ họ Laminariaceae và được ăn rộng rãi ở Đông Á. Nó cũng
là một loại gia vị truyền thống của Nhật Bản. Miso là một loại bột nhão đặc được tạo ra bằng cách lên men đậu nành với muối và kōji (loại nấm Aspergillus oryzae) và
là Thiên hoàng thứ ba theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của vị Thiên hoàng này. An Ninh được các nhà sử
là vị Thiên hoàng thứ hai của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của vị Thiên hoàng này. ## Truyện
**Tsushima** (対馬, Hán Việt: _Đối Mã_) là một hòn đảo trong quần đảo Nhật Bản nằm giữa eo biển Triều Tiên. Phần đất liền chính của Tsushima từng là một hòn đảo duy nhất, song
thumb|[[Kê trân châu trên cánh đồng]] thumb|[[Eleusine coracana|Kê ngón tay trên cánh đồng]] nhỏ|phải|Bông [[kê châu Âu đã chín.]] thumb|[[Rau mầm|Mầm kê]] **Kê** là tên gọi chung để chỉ một vài loại ngũ cốc có
là một thành phố thuộc tỉnh Iwate, Nhật Bản. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2020, dân số ước tính khoảng 19.062 người và mật độ dân số là 82 người/km² trong tổng số
là thành phố thủ phủ của tỉnh Niigata, Nhật Bản. Đây là thành phố lớn nhất của Nhật Bản bên phía Biển Nhật Bản. Niigata được công nhận là thành phố vào năm 1889. Trước
nhỏ|Một vòi nước phun rửa cho người sử dụng được dùng ở xí bệt nhỏ|Bàn điều khiển ở một toa lét hiện đại Nhật Bản Có hai loại bồn cầu được sử dụng thông dụng
là một hòn đảo núi lửa, thuộc quần đảo Izu ở Biển Philippines. Shikinejima cách phía nam Tokyo khoảng . Cùng với các đảo khác trong quần đảo Izu, Shikinejima là một phần của Vườn
là một thành phố cấp quốc gia của Nhật Bản ở vùng Kansai nằm trên đảo Honshu. Kobe là trung tâm hành chính của tỉnh Hyogo và là một trong những cảng biển chính ở
Những con **búp bê Nhật Bản** là một nét đặc trưng trong văn hoá nghệ thuật của đất nước Nhật Bản. Nó bao gồm nhiều loại, đặc biệt là búp bê truyền thống. Búp bê
**Chó Hokkaido** (tiếng Nhật: 北海道犬 Hokkaidō-inu hay Hokkaidō-ken) là giống chó săn có nguồn gốc từ Nhật Bản. Giống chó Hokkaido có nguồn gốc từ giống Matagi Ken (マタギ犬), một giống chó thời kỳ Jomon
là tỉnh thuộc vùng Tōhoku, Nhật Bản. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Morioka. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của tỉnh là 1.210.534 người và mật độ
, tên trước đây **Ezo**, **Yezo**, **Yeso**, **Yesso** là đảo lớn thứ hai của Nhật Bản. Về mặt hành chính, Hokkaido đóng vai trò như một vùng địa phương kiêm tỉnh đạo lớn nhất Nhật
nhỏ|_[[The Dying Gaul|Dying Gaul_, hay _Capitoline Gaul_ một bản sao bằng đá cẩm thạch La Mã của một công trình Hy Lạp hóa cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên Bảo tàng Capitoline, Rome]]
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
, là một series phim truyền hình Tokusatsu của Nhật. Loạt phim được công chiếu trên TV Asahi từ ngày 28 tháng 1 năm 2001 đến ngày 27 tháng 1 năm 2002. Đây là phần
thumb|right|Vị trí quần đảo Amami thumb|Quần đảo Amami thumb|Bờ biển thành phố Amami, Amami Ōshima là một nhóm các đảo thuộc quần đảo Satsunan, một phần của quần đảo Nansei (hay Ryukyu). Quần đảo là
phải|Một kho lương bằng đá hiện đại **Kho thóc** hay **vựa thóc** hoặc **vựa lúa** hay là **kho lúa** hoặc **kho lương** là một nhà kho chuyên dụng dùng để chứa ngũ cốc đã được
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Á và châu Đại Dương. ## Afghanistan (2) nhỏ|[[Minaret ở Jam|trái]] * Tháp giáo đường ở Jam và các
Cổ họa của [[người Nhật về chuyến du hành của Từ Phúc.]]**Từ Phúc** (tiếng Hán: 徐福), tự **Quân Phòng**, người đất Tề thời nhà Tần. Ông là một phương sĩ, từng làm ngự y cho