✨Thỏa ước Worms

Thỏa ước Worms

right|thumb|Năm 1122, [[Heinrich V của đế quốc La Mã Thần thánh ký kết một thỏa thuận với Giáo hoàng Calixtô II được gọi là Hợp đồng Worms.]]

Thoả ước Worms (), đôi khi được gọi là Pactum Calixtinum bởi các sử gia Giáo hoàng, là một thỏa thuận giữa Giáo hoàng Calixtô II và Heinrich V, Hoàng đế La Mã Thần thánh vào ngày 23 tháng 9 1122, gần thành phố Worms. Nó chấm dứt giai đoạn đầu tiên của cuộc đấu tranh quyền lực giữa Giáo hoàng và Hoàng đế La Mã Thần thánh và đã được giải thích như có chứa trong thỏa ước nguyên tắc chủ quyền quốc gia mà sau đó được xác nhận trong Hòa ước Westfalen (1648). Một phần việc này là một kết quả không lường trước được về sự vận động chiến lược giữa Giáo hội và các chủ quyền châu Âu về việc kiểm soát quyền lực chính trị trong các lĩnh vực của họ. Nhà vua được công nhận là có quyền trao cho các giám mục với quyền lực thế tục ("bởi cây thương") trong các vùng lãnh thổ mà họ cai trị, nhưng không có quyền lực thiêng liêng ("bởi nhẫn và các viên chức"). Kết quả là các giám mục phải trung thành trong các vấn đề thế tục đối với cả giáo hoàng và nhà vua, vì họ có nghĩa vụ xác nhận quyền của chủ quyền để đòi hỏi họ ủng hộ quân sự, theo lời thề của họ đối với hoàng đế. Các vị hoàng đế La Mã Thần thánh trước đây đã nghĩ rằng họ có quyền, được Chúa ban cho, để chọn các quan chức Giáo hội trong lãnh thổ của họ (như các giám mục) và xác nhận cuộc bầu cử Giáo hoàng (và, vào những thời điểm cấp bách bất thường, thực sự chọn các giáo hoàng). Trong thực tế, các hoàng đế đã phụ thuộc rất nhiều vào các giám mục trong việc điều hành chính quyền thế tục của họ, vì họ không phải là quý tộc di truyền hoặc gần như di truyền với lợi ích gia đình.

Sau những nỗ lực của Hồng y Lamberto Scannabecchi (sau này là Giáo hoàng Hônôriô II) và hội nghị Würzburg (1121), năm 1122, Giáo hoàng Calixtô II và Hoàng Đế La Mã Thần thánh Heinrich V đã ký kết một thỏa thuận chấm dứt tranh cãi về quyền phong chức. Theo các điều khoản của thỏa thuận, cuộc bầu cử các giám mục và tu viện trưởng ở Đức diễn ra trong sự hiện diện của hoàng đế như là quan tòa giữa các bên có thể tranh chấp, không để mua chuộc, do đó giữ cho hoàng đế một vai trò rất quan trọng trong việc lựa chọn những nhà lãnh đạo lớn trong lãnh thổ Đế chế. Ngoài biên giới của Đức, ở Burgundy và Ý, Hoàng đế đã chuyển tiếp các biểu tượng quyền lực trong vòng sáu tháng.

Hoàng đế từ bỏ quyền trao cho các giáo sĩ nhẫn và gậy Mục tử, các biểu tượng của quyền lực tinh thần của họ, và đảm bảo cuộc bầu cử của các giáo sĩ của nhà thờ hoặc tu viện và sự tự do hiến dâng.

Thỏa ước Worms là một phần của những cải cách lớn hơn được đưa ra bởi nhiều giáo hoàng, đáng chú ý nhất là Giáo hoàng Grêgôriô VII. Chúng bao gồm nếp sống độc thân của các giáo sĩ, kết thúc sự buôn bán các chức vụ nhà thờ và quyền tự chủ của Giáo hội từ các nhà lãnh đạo thế tục.

Tầm quan trọng

Mặc dù tranh chấp quyền phong chức đã được giải quyết với thỏa ước Worms, nhưng đế chế đã phải chịu tổn thất nặng nề. Hào quang thiêng liêng của hoàng đế đã bị lung lay và sự thống nhất hiện tại của đế quốc và giáo hoàng đã bị bãi bỏ. Điều này sẽ dẫn đến một sự định hướng lại ý tưởng của đế quốc dưới triều đại nhà Staufer, theo đó vấn đề tồn tại cho đến gần cuối thời Trung cổ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|Năm 1122, [[Heinrich V của đế quốc La Mã Thần thánh ký kết một thỏa thuận với Giáo hoàng Calixtô II được gọi là Hợp đồng Worms.]] **Thoả ước Worms** (), đôi khi được gọi
**Công đồng Lateran I** (Lateranus I) diễn ra vào năm 1123 do Giáo hoàng Callixtus II triệu tập. Có khoảng 300 Giám mục và 700 đại biểu khác tham dự các khóa họp từ 8
**Calixtô II** (Latinh: **Callixtus II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Gelasius II và là vị Giáo hoàng thứ 162 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Hônôriô II** (Latinh: **Honorius II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Callixtus II và là vị giáo hoàng thứ 163 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
nhỏ|Bản đồ hai lãnh địa của thân vương giám mục (_Hochstifte_) vào cuối thế kỷ 18. nhỏ|Mốc đá cũ phân định lãnh thổ tương ứng của [[Giáo phận vương quyền Paderborn và Bá quốc Rietberg.]]
**Xung đột giáo phận** () là một cuộc xung đột căng thẳng giữa hai ứng viên của cuộc bầu cử cho vị trí thân vương-giám mục, hoặc một cuộc xung đột vũ trang giữa hai
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
Bài viết này cung cấp một cái nhìn sơ lược về lịch sử nước Đức vào thời Trung cổ, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV. Giai đoạn này
**Lêô X** (Latinh: **Leo X**) là vị giáo hoàng thứ 217 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1513 và ở ngôi Giáo
**Jean Calvin** (tên khai sinh là _Jehan Cauvin_, 10 tháng 7 năm 1509 – 27 tháng 5 năm 1564) là nhà thần học có nhiều ảnh hưởng trong thời kỳ Cải cách Kháng Cách. Tại
**Grêgôriô VIII** hay **Gregory VIII** (chết 1137), tên khai sinh là **Mauritius Burdinus** (Maurice Bourdin), là Giáo hoàng đối lập từ ngày 10 tháng 3 năm 1118 đến ngày 22 tháng 4 1121. Ông sinh
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Bí tích Hòa Giải** (còn gọi là **Bí tích Hoán Cải** hay **Sám Hối**, **Xưng Tội**, **Tha Tội**, **Giải Tội**, **Bí tích của sự hối cải**, **Bí tích Thống Hối**, **Bí tích Xưng tội**, **Bí
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
nhỏ|Ông lão người do thái Ashkenazi **Người Do Thái Ashkenazi** ( ), hay còn gọi là **Ashkenazic Do Thái** trong tiếng Hebrew số nhiều có hậu tố _-im,_ **Ashkenazim** là một Cộng đồng người Do
nhỏ|400x400px|Vườn quốc gia trong Tam giác San Hô **Tam giác San Hô **là một thuật ngữ địa lý được đặt tên như vậy vì nó ám chỉ một khu vực đại khái trông giống hình