✨Thịnh vượng chung Philippines
Thịnh vượng chung Philippines (; ; )
Trong hơn một thập niên tồn tại, Thịnh vượng chung có quyền hành pháp mạnh và có một Tòa án tối cao. Cơ quan lập pháp của Thịnh vượng chung nằm dưới quyền chi phối của Đảng Quốc dân, cơ quan này ban đầu có một viện, về sau có hai viện. Năm 1937, chính phủ lựa chọn ngôn ngữ tại Manila và các tỉnh xung quanh là tiếng Tagalog làm cơ sở cho quốc ngữ, song phải mất nhiều nó mới được sử dụng phổ biến. Quyền bỏ phiếu của nữ giới được phê chuẩn và kinh tế khôi phục mức trước Suy thoái trước khi Nhật Bản chiếm đóng năm 1942.
Chính phủ Thịnh vượng chung lưu vong từ năm 1942 đến năm 1945, khi Philippines bị Nhật Bản chiếm đóng. Năm 1946, Thịnh vượng chung kết thúc và Philippines tuyên bố chủ quyền đầy đủ theo Điều XVIII của Hiến pháp 1935.
Tên gọi
Thịnh vượng chung Philippines còn được gọi trong tiếng Anh là "Philippine Commonwealth", hoặc giản hóa thành "the Commonwealth". Hiến pháp 1935 xác định "the Philippines" là tên tắt của quốc gia trong tiếng Anh và chỉ sử dụng "the Philippine Islands" để đề cập đến tình trạng và thể chế trước năm 1935.
Lịch sử
Hình thành
thumb|left|23 tháng 3 năm 1935: Hội nghị Hiến pháp. Ngồi, từ trái sang phải: Bộ trưởng Chiến tranh [[George H. Dern, Tổng thống Franklin D. Roosevelt, và Manuel L. Quezon]] Chính quyền lãnh thổ thuộc Hoa Kỳ trước năm 1935, hay Chính phủ Đảo dân, do một toàn quyền đứng đầu và người này được Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Tháng 12 năm 1932, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Hare–Hawes–Cutting tạo tiền đề trao độc lập cho người Philippines. Các điều khoản trong dự luật bao gồm bảo lưu các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ, cũng như áp đặt thuế quan và hạn hạch cho xuất khẩu của Philipines. Tổng thống Herbert Hoover phủ quyết Đạo luật Hare–Hawes–Cutting, tuy nhiên Quốc hội Hoa Kỳ phế trừ phủ quyết của Hoover vào năm 1933 và thông qua dự luật bất chấp Hoover phản đối. Tuy nhiên, dự luật bị Chủ tịch Hạ viện Philippines đương thời là Manuel L. Quezon phản đối, Hạ viện Philippines cũng bác bỏ dự luật.
Tình hình này dẫn đến tạo lập và thông qua một dự luật mới mang tên Đạo luật Tydings–McDuffie, hay còn gọi là Đạo luật Độc lập Philippines, theo đó chấp thuận thành lập Thịnh vượng chung Philippines với một thời kỳ chuyển tiếp hòa bình kéo dài 10 năm hướng đến độc lập hoàn toàn – ngày cụ thể là 4 tháng 7 sau kỷ niệm 10 năm thành lập Thịnh vượng chung.
Một Hội nghị Hiến pháp được triệu tập tại Manila vào ngày 30 tháng 7 năm 1934. Ngày 8 tháng 2 năm 1935, Hiến pháp 1935 của Thịnh vượng chung Philippines được hội nghị phê chuẩn với 177/1 phiếu. Hiến pháp này được Tổng thống Franklin D. Roosevelt phê chuẩn vào ngày 23 tháng 3 năm 1935 và được thông qua theo phiếu phổ thông vào ngày 14 tháng 5 năm 1935.
Ngày 17 tháng 9 năm 1935, Tuy nhiên, kinh tế vẫn phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Điều này là kết quả của Đạo luật mậu dịch Bell, còn gọi là Đạo luật mậu dịch Philippine, đó là một điều kiện tiên quyết để nhận viện trợ khôi phục sau chiến tranh từ Hoa Kỳ.
Chính sách
Đương thời, các bất bình của tá điền thường bắt nguồn từ việc nộp tô, cũng như do dân số gia tăng đột biến tạo áp lực lên gia đình họ. Do đó, Thịnh vượng chung khởi đầu một chương trình cải cách nông nghiệp, tuy nhiên thành công của chương trình bị cản trở do xung đột tiếp tục giữa tá điền và địa chủ. Trong đó, có phong trào Sakdalista do Benigno Ramos khởi xướng, theo đó chủ trương giảm thuế, chia các bất động sản lớn, và đoạn tuyệt các quan hệ với Hoa Kỳ. Cuộc khởi nghĩa này diễn ra tại Trung Luzon vào tháng 5 năm 1935, cướp đi khoảng một trăm sinh mạng.
Do đa dạng về ngôn ngữ tại Philippines, một chương trình "phát triển và chấp nhận một quốc ngữ chung dựa trên các phương ngữ bản địa hiện tại" được phác thảo trong Hiến pháp 1935. Thịnh vượng chung lập ra Surián ng Wikang Pambansà (Viện Quốc ngữ), ban đầu gồm có Tổng thống Quezon và sáu thành viên khác đến từ các dân tộc khác nhau. Một cuộc tranh luận được tổ chức và tiếng Tagalog được lựa chọn do có truyền thống văn học quy mô lớn, làm cơ sở cho "quốc ngữ" được gọi là "Pilipino".
Năm 1940, Thịnh vượng chung ủy quyền lập một từ điển và sách ngữ pháp cho quốc ngữ. Trong cùng năm, Đạo luật Thịnh vượng chung 570 được thông qua, công nhận Filipino trở thành một quốc ngữ khi độc lập.
Kinh tế
Kinh tế tiền tệ của Thịnh vượng chung chủ yếu dựa trên nông nghiệp. Các sản phẩm gồm có chuối abaca, dừa và dầu dừa, đường, và gỗ.
Nhân khẩu
Một cuộc điều tra nhân khẩu được tiến hành tại Philippines trong năm 1939, xác nhận rằng dân số đảo quốc là 16.000.303; trong đó 15,7 triệu người được phân loại là "da nâu", 141,8 nghìn người là "da vàng", 19,3 nghìn người là "da trắng", 29,1 nghìn người là "da đen", 50,5 nghìn người "hỗn chủng", và dưới một nghìn người xếp vào nhóm "Khác". Năm 1941, dân số Philippines ước tính đạt 17.000.000; trong đó có 117.000 người Hoa, 30.000 người Nhật, và 9.000 người Mỹ. Tiếng Anh được 26,3% dân số nói theo điều tra nhân khẩu năm 1939. Tiếng Tây Ban Nha bị tiếng Anh vượt mặt từ đầu thập niên 1920, trở thành một ngôn ngữ của tầng lớp tinh hoa và trong chính phủ; sau đó ngôn ngữ này bị cấm chỉ trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng.
Số lượng ước tính người nói các ngôn ngữ có ưu thế: Cebuano: 4.620.685 Tagalog: 3.068.565 Ilocano: 2.353.518 Hiligaynon: 1.951.005 Waray: 920.009 Kapampangan: 621.455 *Pangasinan: 573.752
Chính phủ
Thịnh vượng chung có hiến pháp riêng, bản hiến pháp này duy trì hiệu lực cho đến năm 1973, và được tự quản thành viên đều là người Philippines, và được bầu một ủy viên thường trực trong Hạ nghị viện Hoa Kỳ. Một cao ủy Hoa Kỳ và một cố vấn quân sự của Hoa Kỳ,
Chính trị
Danh sách tổng thống
Màu sắc biểu thị chính đảng hoặc liên minh chính trị của mỗi tổng thống vào ngày bầu cử.
1 Tử vong vì bệnh lao tại Saranac Lake, New York.
² Kết thúc chính phủ Thịnh vượng chung, bắt đầu nền cộng hòa độc lập.
Chính phủ Quezon (1935–44)
thumb| [[Manuel L. Quezon, tổng thống giai đoạn 1935–44 ]] Năm 1935, Quezon giành thắng lợi trong bầu cử tổng thống quốc gia lần thứ nhất, dưới trướng Đảng Quốc dân (Nacionalista). Ông giành được gần 68% số phiếu, đánh bại hai đối thủ chính là Emilio Aguinaldo và Giám mục Gregorio Aglipay. Khi Manuel L. Quezon nhậm chức Tổng thống Philippines vào năm 1935, ông trở thành người Philippines đầu tiên đứng đầu chính phủ đảo quốc kể từ thời Emilio Aguinaldo và Cộng hòa Malolos năm 1898. Tuy nhiên, vào năm 2008, Nghị sĩ Rodolfo Valencia của tỉnh Oriental Mindoro trình một dự luật yêu cầu công nhận Tướng quân Miguel Malvar là tổng thống thứ nhì của Philippines, đã trực tiếp kế vị Aguinaldo vào năm 1901.
Quezon ban đầu gặp phải cản trở trong hiến pháp về việc tái cử. Tuy nhiên, các sửa đổi hiến pháp trong năm 1940 được phê chuẩn giúp ông được phép vận động tái cử khi nhiệm kỳ kết thúc vào năm 1943. Trong bầu cử tổng thống năm 1941, Quezon giành thắng lợi trước cựu Thượng nghị sĩ Juan Sumulong với gần 82% số phiếu.
Trong một hành động nhân đạo nổi tiếng, Quezon hợp tác với cao ủy của Hoa Kỳ là Paul V. McNutt tạo thuận tiện cho người Do Thái đang đào thoát khỏi các chế độ phát-xít tại châu Âu khi nhập cảnh đến Philippines. Quezon cũng xúc tiến một dự án tái định cư những người tị nạn tại Mindanao.
Quezon mắc bệnh lao và trong những năm cuối đời ông chữa trị tại Saranac Lake, Nêw York, song qua đời vào này 1 tháng 8 năm 1944.
Chính phủ Osmeña (1944–46)
Osmeña trở thành tổng thống của Thịnh vượng chung khi Quezon qua đời vào năm 1944. Ông trở về Philippines trong cùng năm với Tướng Douglas MacArthur và quân giải phóng. Sau chiến tranh, Osmeña khôi phục chính phủ thịnh vượng chung và các cơ quan hành pháp, tiếp tục đấu tranh vì độc lập cho Philippines.
Osmeña từ chối tiến hành vận động trong tranh cử tổng thống năm 1946, phát biểu rằng nhân dân Philippines biết thành tựu trong 40 năm phụng sự chân thực và trung thành của ông. Tuy nhiên, ông thất bại trước Manuel Roxas, người này giành được 54% số phiếu và trở thành tổng thống đầu tiên của Philippines độc lập.
Roxas Administration (ngày 28 tháng 5 năm 1946 – ngày 4 tháng 7 năm 1946)
thumb|[[Manuel Roxas, tổng thống cuối cùng của Thịnh vượng chung]] Roxas giữ chức tổng thống của Thịnh vượng chung Philippines trong một giai đoạn ngắn, từ ngày 28 tháng 5 năm 1946 đến ngày 4 tháng 7 năm 1946, tức ngày tuyên bố Philippines độc lập theo kế hoạch. Roxas chuẩn bị nền móng cho sự khai sinh của Philippines tự do và độc lập, với hỗ trợ của Nghị viện (tái tổ chức vào ngày 25 tháng 5 năm 1946), với Thượng nghị sĩ José Avelino làm Chủ tịch Thượng nghị viện và Nghị sĩ Eugenio Pérez làm Chủ tịch Hạ nghị viện. Ngày 3 tháng 6 năm 1946, Roxas lần đầu xuất hiện trước phiên họp chung của Nghị viện để trình bày bài diễn văn đầu tiên trước quốc dân. Trong đó, ông nói với các thành viên Nghị viện các vấn đề và khó khăn nghiêm trọng mà Philippines phải đối diện và báo cáo chuyến công du đặc biệt của mình đến Hoa Kỳ — sự chấp thuận độc lập.
Ngày 21 tháng 6, ông tái xuất hiện trong một phiên họp chung khác của Nghị viện và thúc đẩy chấp thuận hai luật quan trọng được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 30 tháng 4 năm 1946 cho Philippines. Chúng là Đạo luật Khôi phục Philippines và Đạo luật Mậu dịch Philippines. Cả hai đều được Nghị viện thông qua.