✨Emilio Aguinaldo
Emilio Aguinaldo y Famy (23 tháng 3 năm 1869 – 6 tháng 2 năm 1964) là một nhà cách mạng, nhà chính trị, và thủ lĩnh quân sự người Philippines. Ông chính thức được công nhận là tổng thống đầu tiên của Philippines (1899–1901) và lãnh đạo quân Philippines chiến đấu chống lại Tây Ban Nha trong nửa sau của Cách mạng Philippines (1896–1897), trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ (1898), và sau đó chống lại Mỹ (1899–1901). Ông bị quân Mỹ bắt vào năm 1901, khiến nhiệm kỳ của ông kết thúc.
Năm 1935, Aguinaldo tranh cử bất thành chức tổng thống Thịnh vượng chung Philippines trước Manuel Quezon. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Philippines năm 1941, ông cộng tác với những người lãnh đạo mới, còn lập một đài phát thanh kêu gọi quân Mỹ và Philippines tại Bataan đầu hàng. Ông bị bắt vì tội cộng tác với địch sau khi người Mỹ trở lại song sau đó được phóng thích trong một đợt đại xá.
Thuở trẻ và gia đình
Emilio Aguinaldo sinh ngày 23 tháng 3 năm 1869 tại Cavite el Viejo (nay là Kawit), thuộc tỉnh Cavite, là con của Carlos Aguinaldo y Jamir và Trinidad Famy, một cặp đôi người lai Tagalog-Hoa có tám con, Emilio là con thứ bảy. Gia đình Aguinaldo khá sung túc do cha ông được cộng đồng bổ nhiệm làm khu trưởng trong chính quyền thực dân Tây Ban Nha. Ông theo học tại Học viện San Juan de Letran song không hoàn thành khóa học do bệnh tả.
Emilio trở thành "Cabeza de Barangay" của Binakayan, một khu vực chính yếu của Cavite el Viejo, vào năm 17 tuổi để tránh phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Năm 1895, Luật Maura về tái tổ chức chính quyền địa phương được ban hành. Ở tuổi 25, Aguinaldo trở thành khu trưởng đầu tiên của Cavite Viejo trong khi đang trong một chuyến đi kinh doanh tại Mindoro.
Năm 1896, ông kết hôn với Hilaria del Rosario (1877–1921). Họ có năm người con là: Carmen Aguinaldo Melencio, Emilio Aguinaldo, Jr, Maria Aguinaldo Poblete, Cristina Aguinaldo Suntay và Miguel Aguinaldo.
Sự nghiệp chính trị
Cách mạng Philippines
thumb|Hiệu kỳ phái Magdalo do [[Baldomero Aguinaldo lãnh đạo.]] Năm 1894, Aguinaldo tham gia "Katipunan", đây là một tổ chức bí mật do Andrés Bonifacio lãnh đạo, có mục tiêu là trục xuất người Tây Ban Nha và độc lập cho Philippines thông qua lực lượng vũ trang.
Cách mạng Philippines do Katipunan lãnh đạo chống Tây Ban Nha khởi sự trong tuần cuối của tháng 8 năm 1896 tại San Juan del Monte (nay thuộc Metro Manila). Ngày 23 tháng 12, Aguinaldo và các quan chức cách mạng khác dời đến Hồng Kông tự nguyện lưu vong. Số tiền bồi thường đợt đầu ₱400.000 được ký thác vào các ngân hàng Hong Kong. Trong khi lưu vong, Aguinaldo tái tổ chức chính phủ cách mạng thành "Ủy ban hành chính Hồng Kông" và mở rộng nó thành "Hội đồng Tối cao Quốc gia". Aguinaldo lập tức tiếp tục chỉ huy lực lượng cách mạng và bao vây Manila.
Ngày 12 tháng 6, Aguinaldo công bố Tuyên ngôn độc lập Philippines từ Tây Ban Nha và đến ngày 18 tháng 6 cùng năm, ông công bố một sắc lệnh chính thức thiết lập chính phủ độc tài của mình. Một nhóm kháng chiến dưới quyền Macario Sakay lập ra Cộng hòa Tagalog. Ngày 19 tháng 4 năm 1901, Aguinaldo tiến hành tuyên thệ trung thành với Hoa Kỳ, chính thức kết thúc Đệ nhất Cộng hòa và công nhận chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Philippines.
Hậu tổng thống
Thời Mỹ thuộc
thumb|left|Aguinaldo và [[Manuel L. Quezon|Quezon trong ngày Quốc kỳ năm 1935.]]
Thời Mỹ thuộc, Aguinaldo ủng hộ các tổ chức chủ trương lập tức độc lập và giúp các cựu chiến binh đấu tranh. Ông tổ chức Hiệp hội cựu chiến binh cách mạng để đảm bảo tiền trợ cấp cho các thành viên và tiến hành thu xếp để họ mua đất trả góp từ chính phủ.
Trưng bày Quốc kỳ Philippines bị xem là bất hợp pháp theo Đạo luật Phản loạn năm 1907. Tuy nhiên, đạo luật này được sửa đổi vào ngày 30 tháng 10 năm 1919. Sau đó, Aguinaldo chuyển đổi nhà mình tại Kawit thành một nơi tưởng niệm quốc kỳ, cách mạng và tuyên ngôn độc lập. , nhà ông vẫn tồn tại và được gọi là Đền Aguinaldo.
Aguinaldo rút khỏi sinh hoạt công cộng trong nhiều năm, đến khi Thịnh vượng chung Philipines được thành lập vào năm 1935 nhằm chuẩn bị cho Philippines độc lập, ông tranh cử tổng thống, song thất cử trước Manuel L. Quezon. Hai người chính thức giảng hòa vào năm 1941, khi Tổng thống Quezon chuyển ngày Quốc kỳ sang 12 tháng 6 để kỷ niệm Tuyên ngôn độc lập Philippines. Ông giải thích hành động của mình, "Tôi chỉ nhớ đến cuộc chiến mà tôi lãnh đạo. Chúng tôi cũng có số lượng đông hơn, song liên tục triệt thoái. Tôi thấy binh sĩ của mình chết mà không có tác động gì đến các sự kiện sau này. Đối với tôi có lẽ điều đó đang diễn ra tại Bataan, và có vẻ dừng lại là một điều tốt lành." Sau khi liên quân Mỹ và Philippines tái chiếm Philippines vào năm 1945, Aguinaldo bị bắt giữ cùng một số nhân vật khác bị cáo buộc cộng tác với người Nhật, và bị giam vài tháng trong nhà tù Bilibid. Ông được phóng thích theo sắc lệnh của tổng thống.
Thời kỳ hậu Mỹ
Năm 1950, Tổng thống Elpidio Quirino bổ nhiệm Aguinaldo làm một thành viên trong Hội đồng Quốc gia Philippine, ông dảm nhiệm một nhiệm kỳ trọn vẹn tại đây. Ông lại về hưu ngay sau đó, dành thời gian và chú ý của mình cho "lợi ích và phúc lợi" của cựu chiến binh.
Ông được Đại học Philippines phong hàm giáo sư luật vào năm 1953.
Ngày 12 tháng 5 năm, 1962, Tổng thống Diosdado Macapagal đổi kỷ niệm ngày độc lập từ 4 tháng 7 sang 12 tháng 6. Dù sức khỏe yếu song Aguinaldo vẫn tham gia lễ kỷ niệm độc lập vào năm đó. Đến ngày 4 tháng 8 năm 1964, Đạo luật Cộng hòa số 4166 công bố ngày 12 tháng 6 là ngày Độc lập và đổi tên ngày 4 tháng 7 thành ngày Cộng hòa.
Qua đời và di sản
thumb|Mộ Aguinaldo tại [[Kawit, Cavite|Kawit.]] Aguinaldo được đưa vào Trung tâm y tế Veterans Memorial tại thành phố Quezon vào ngày 5 tháng 10 năm 1962. Ông điều trị tại đây trong 469 ngày cho đến khi từ trần vì chứng huyết khối mạch vành ở tuổi 94 vào ngày 6 tháng 2 năm 1964. Trước khi qua đời một năm, ông quyên góp lô đất và dinh thự của mình cho chính phủ. Bất động sản này nay đóng vai trò là một đền để tưởng niệm tinh thần cách mạng 1896.
Năm 1964, sách của ông được xuất bản với tiêu đề "Mga Gunita ng Himagsikan" Hồi ký Cách mạng. Ấn bản thứ nhì được sản xuất vào năm 1988 nhân 100 năm Philippines độc lập.
Năm 1985, Ngân hàng Trung ương Pilipinas phát hành tiền giấy mệnh giá 5 peso mới miêu tả một chân dung Aguinaldo ở mặt trước. Mặt sau của tiền thể hiện tuyên bố độc lập của Philippines vào ngày 12 tháng 6 năm 1898. Mẫu tiền này ngừng phát hành vào năm 1995, giấy bạc 5 peso mới có mặt trước in chân dung Aguinaldo.