✨Katipunan

Katipunan

Katipunan (viết tắt KKK) là một tổ chức cách mạng được thành lập bởi Andrés Bonifacio, Teodoro Plata, Ladislao Diwa và những nhà yêu nước Philippines khác ở Manila vào năm 1892 với mục đích là đấu tranh chống Thực dân Tây Ban Nha bằng con đường bạo lực cách mạng, giành độc lập cho Philippines. Ban đầu, Katipunan là một tổ chức bí mật cho đến khi hoạt động công khai năm 1896, dẫn đến sự bùng nổ Cách mạng Philippines.

"Katipunan" tiếng Tagalog có nghĩa là liên hiệp, xuất phát từ từ gốc là tipon, tiếng Tagalog nghĩa là tập hợp. Tên chính thức của Katipunan là Kataas-taasan, Kagalang -galangang Katipunan ng anak ng Bayan, có nghĩa là Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân, tiếng Tây Ban Nha: Suprema y Venerable Asociación de los Hijos del Pueblo. Katipunan viết tắt một lần nữa thành: KKK (không nên nhầm lẫn với đảng cực đoan Ku Klux Klan).

Là một tổ chức chính trị bí mật, những thành viên của Katipunan phải tuyệt đối giữ bí mật về sự tồn tại của tổ chức và bắt buộc phải tuân thủ những điều lệ. Những người muốn tham gia phải thực hiện những nghi thức kết nạp tiêu chuẩn Do bất đồng với phương pháp đấu tranh bất bạo động của José Rizal, ngày 7 tháng 7 năm 1892, một ngày sau khi Rizal bị trục xuất khỏi Philippines, Bonifacio và một số thành viên khác thành lập Katipunan, sau một thời gian thì cả hai tổ chức Katipunan và La Liga Filipina hợp nhất.

Hầu hết những người sáng lập của Katipunan đều là hội viên Hội Tam Điểm. Những nghi lễ kết nạp vào Katipunan cũng được bắt chước Hội Tam Điểm. Katipunan cũng có sự phân chia thứ bậc trong tổ chức, có cách để nhận ra thứ bậc của nhau, có bảng chữ cái riêng, ngôn ngữ riêng, tất cả đều lấy cảm hứng từ Hội Tam Điểm. Katipunan có một cuốn sách hướng dẫn cho người mới vào hội tên là Kartilya ng Katipunan.

Thành lập Katipunan

thumb|Con dấu của Katipunan. Dòng chữ đọc là "Kataas-taasang Kagalang-galangang Katipunan ng mga Anak ng Bayan." Các thành viên La Liga Filipina bị bắt bởi Thực dân Tây Ban Nha đã tiết lộ rằng trong nội bộ của La Liga đã có sự phân hóa. Họ khai với chính quyền thực dân rằng chủ trương của La Liga là đấu tranh bằng phương pháp ôn hòa, trong khi đó các cuộc khởi nghĩa vũ trang đã lần lượt xuất hiện.

Vào đêm 7 tháng 7 năm 1892, khi José Rizal bị trục xuất đến Dapitan ở Mindanao, Andrés Bonifacio, một thành viên của La Liga Filipina, đã thành lập Katipunan trong một ngôi nhà ở San Nicolas, Manila. Bonifacio đã thành lập Katipunan khi đường lối đấu tranh chống Thực dân Tây Ban Nha đã trở nên rõ ràng với người Philippines khi đường lối đấu tranh ôn hòa của La Liga không có hiệu quả và bị đàn áp. Trong tiến trình thành lập Katipunan, Bonifacio đã nhận được sự trợ giúp bởi hai người bạn của ông, Teodoro Plata (anh rể) và Ladislao Diwa, cùng với Valentín Díaz và Deodato Arellano. Katipunan, được thành lập như là một hội kín, với khẩu hiệu Kataas-taasang, Kagalang-galangang Katipunan ng mgá Anak ng Bayan (Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân). Katipunan có 4 mục đích chính:

  • Mỗi thành viên Katipunan có trách nhiệm phát triển mạnh mẽ tổ chức
  • Đoàn kết người Philippines vào một quốc gia vững chắc
  • Giành độc lập cho Philippines bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang (hoặc cách mạng)
  • Thành lập một nước cộng hòa sau khi giành được độc lập Sự phát triển của Katipunan đã báo hiệu cho sự kết thúc của Phong trào Tuyên truyền, chứng minh rằng phương pháp đấu tranh ôn hòa của La Liga Filipina đã trở nên bất hiệu lực. Vì vậy, Bonifacio đã tiến hành đấu tranh giành độc lập bằng con đường bạo lực cách mạng.

Chuẩn bị cho cách mạng

Cố gắng tìm sự hỗ trợ của Rizal

thumb|Những lá cờ của Katipunan (Bảo tàng Casa Real) Vào đêm, khi Thống đốc người Tây Ban Nha Eulogio Despujol áp giải José Rizal đi lưu đày ở Dapitan, Katipunan được thành lập. Trong một cuộc họp bí mật của Katipunan ở một con lạch nhỏ được gọi là Bitukang Manok gần Pasig ngày 4 tháng 5 năm 1896, Bonifacio và các thành viên của ông quyết định tham khảo ý kiến của Rizal về quyết định nổi dậy. Điều này cần được thực hiện để thông báo kế hoạch của Katipunan cho Rizal để tiến hành một cuộc cách mạng và, nếu có thể, một cuộc chiến chống lại Tây Ban Nha. Rizal ngay lập tức trả lời: "Huwag, huwag! Iya'y makasasama sa bayang Filipino!" (Không, không, điều đó sẽ làm hại Philippines!).

Người dân chưa sẵn sàng cho một cuộc cách mạng có quy mô lớn

Vũ khí và tiền bạc phải được chuẩn bị trước khi tiến hành cách mạng

Sau khi nghe Rizal nói, Tiến sĩ Valenzuela đưa ra thỏa thuận thứ hai: Giải cứu Rizal ra khỏi nơi giam giữ. Nhưng Rizal lại khước từ, bởi vì ông đã hứa danh dự với Thực dân Tây Ban Nha sẽ không bỏ trốn và ông không muốn làm trái lời hứa đó. Thay vào đó, Rizal khuyên Valenzuela thuyết phục những nhà tư sản Philippines giàu có để họ có thể giúp đỡ Katipunan về vấn đề tài chính, trong đó ông đề nghị một viên sĩ quan quân đội tên là Antonio Luna trở thành thành viên của Katipunan, nếu cách mạng nổ ra. Trở về Manila, Tiến sĩ Valenzuela thông báo cho Katipunan về thất bại của mình trong việc thuyết phục Rizal. Bonifacio tức giận, cảnh báo Valenzuela không được nói với ai về việc Rizal từ chối ủng hộ cuộc nổi dậy sắp xảy ra. Tuy nhiên, Valenzuela đã lan truyền tin này, vì vậy mà nhiều đề xuất quỹ cho tổ chức đã bị hủy bỏ. Mặc dù bị Rizal từ chối hợp tác, Katipunan đã cố gắng giải quyết các vấn đề cung cấp vũ khí và đã từng bước nhập lậu vũ khí từ nước ngoài. Khi bị Thực dân Tây Ban Nha dò hỏi, Rizal phủ nhận rằng ông có hoạt động bí mật với Valenzuela, và chỉ nói rằng đây là lần đầu tiên ông gặp Valenzuela ở Dapitan và ông coi Valenzuela là một người bạn tốt vì Valenzuela đã cho ông thấy và đánh giá cao những công cụ y tế mà Valenzuela đã cho ông xem. Ông cũng nói rằng đây là lần cuối cùng họ gặp nhau.

Cố gắng xin viện trợ từ Nhật Bản

Mặc dù Rizal từ chối tham gia cách mạng, Bonifacio vẫn tiếp tục lập kế hoạch cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại Tây Ban Nha. Vào tháng 5 năm 1896, sau chuyến thăm Rizal của Valenzuela, phái đoàn các thành viên Katipunan do Emilio Jacinto và Bonifacio đứng đầu đã đến gặp một viên chức hải quân và thuyền trưởng của một con tàu Nhật Bản tên là Kongo. Jacinto yêu cầu họ gửi một bức thư do chính tay ông viết đến Thiên hoàng Minh Trị, trong đó nói rằng người Philippines xin Nhật Bản viện trợ cho cuộc khởi nghĩa của họ, "để ánh sáng tự do chiếu sáng Nhật Bản cũng có thể làm rạng rỡ Philippines." Đó là lý do chính đáng mà Katipunan yêu cầu viện trợ của Nhật Bản. Nhật Bản đã trở thành chỗ dựa của người dân Philippines kể từ khi Philippines thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Nhiều người Philippines đã trốn chạy khỏi các cuộc bức hại của Tây Ban Nha đã được chào đón ở đó và được bảo vệ đầy đủ bởi luật pháp Nhật Bản. Bonifacio đã cố gắng mua vũ khí và đạn dược từ Nhật Bản, nhưng thất bại vì do thiếu vốn và việc José Dizon - một thành viên quan trọng của Katipunan đã bị bắt ba tháng sau đó vì nổi loạn. Ngày 13 tháng 8 năm 1896, giám mục Agustín Fernández đã viết thư cho Thống đốc Dân quyền Manila Don Manuél Luengo, tố cáo các cuộc họp chống Tây Ban Nha trong giáo xứ của ông. Katipunan cuối cùng đã bị Thực dân Tây Ban Nha phát hiện sáu ngày sau khi bức thư của Fernández gửi đến Luengo. Vào đầu tháng 8 năm 1896, hai thành viên của Katipunan, cụ thể là Teodoro Patiño và Apolonio de la Cruz, đang làm việc cho một tờ báo nổi tiếng tên là Diario de Manila đã cãi nhau vì tiền lương của họ có sự chênh lệch. Apolonio de la Cruz và Teodoro Patiño tranh cãi nhau về việc người này hơn người kia 2 peso, và de la Cruz đã cố gắng để đổ lỗi cho Patiño về việc mất các vật tư in đã được sử dụng cho báo Kalayaan. Tức giận, Patiño đã tiết lộ những bí mật của Katipunan cho em gái mình là Honoria Patiño, một nữ tu sĩ đang làm việc tại Trại trẻ mồ côi Mandaluyong. Chiều hôm đó, vào ngày 19 tháng 8 năm 1896, Honoria đã kể hết những gì bà nghe được từ anh trai mình với một bà xơ tên là Teresa de Jesus. Teresa de Jesus đã khuyên Teodoro Patiño đến xưng tội với giám mục Mariano Gíl và kể với cha Gíl những gì ông biết về Katipunan. Họ cũng tìm thấy con dao găm của Apolonio de la Cruz được sử dụng trong nghi thức kết nạp của Katipunan và danh sách một số các thành viên mới. Sau khi tìm thấy những thứ này, Giám mục Gíl đã vội vã đến văn phòng của Thống đốc Blanco để tố cáo âm mưu cách mạng của Katipunan. Thực dân Tây Ban Nha sau đó đã tổ chức một cuộc vây bắt hàng chục người vô tội và đày họ đến Fort Santiago.

Cách mạng bùng nổ

Ngày 24 tháng 8, Bonifacio tuyên bố thành lập ra 1 chính phủ nổi dậy mang tên Đệ Nhất Cộng Hòa Tagalog và được các ủy viên và cán bộ trong Katipunan bầu cử trực tiếp làm Tổng thống Philippines. Khi các nhà lãnh đạo Katipunan biết về các vụ bắt giữ, Bonifacio đã triệu tập các thành viên để quyết định bắt đầu khởi nghĩa vũ trang. Cuộc họp được tổ chức tại nhà của Apolonio Samson tại một nơi gọi là Kangkong ở Balintawak. Khoảng 1.000 thành viên Katipunan đã tham dự cuộc họp nhưng do không thống nhất về ý kiến, cuộc họp đã không đạt được kết quả gì.

Họ gặp lại nhau ở Balintawak vào ngày hôm sau. Các nhà sử học vẫn đang tranh luận liệu sự kiện này đã diễn ra tại sân của Melchora Aquino hay tại nhà của con trai Juan Ramos. Cuộc họp diễn ra vào ngày 23 tháng 8 hoặc ngày 24 tháng 8. Andrés Bonifacio và em trai Procopio sau đó bị bắt vì những sự kiện bị cáo buộc tại Indang, theo lệnh của Hội đồng chiến tranh và được chấp thuận bởi Aguinaldo họ đã bị kết án ngày 10 tháng 5 năm 1897, cả hai anh em Bonifacio đã bị xử bắn trong khu rừng ở trên núi Buntis thuộc khu vực Maragondon, tỉnh Cavite, Philippines. Ông và em trai ông đã được chôn trong một ngôi mộ vô danh. Một số tài liệu khác cho rằng trên thực tế hai anh em Bonifacio phải đi đày ở nước ngoài.

Katipunan giải tán

Ngày 25 tháng 10 năm 1897, Katipunan tuyên bố giải tán. Sau khi Mỹ chiến thắng trong Chiến tranh Mỹ - Philippines, chính phủ Mỹ đã tiến hành tiêu diệt bất cứ tàn dư nào còn sót lại của Katipunan.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Katipunan** (viết tắt **KKK**) là một tổ chức cách mạng được thành lập bởi Andrés Bonifacio, Teodoro Plata, Ladislao Diwa và những nhà yêu nước Philippines khác ở Manila vào năm 1892 với mục đích
**Katipunan** là một đô thị cấp ba ở tỉnh Zamboanga del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số 37.448 người trong 7.576 hộ. ## Các đơn vị
**Andrés de Castro Bonifacio** (30 tháng 11,1863-10 tháng 5,1897) là một nhà cách mạng Philippines,người đã sáng lập tổ chức Katipunan,một tổ chức lãnh đạo cách mạng Philippines hoạt động từ 1892-1897. Ông được người
**Cuộc cách mạng Philippines** (tiếng Filipino: Himagsikang Pilipino), hay còn được gọi là **Chiến tranh Tagalog** (tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Tagalog_) bởi người Tây Ban Nha, là một cuộc cách mạng và các cuộc
**Emilio Jacinto y Dizon** (15 tháng 12 năm 1875 - 16 tháng 4 năm 1899) là một nhà yêu nước người Philippines và là một nhà lãnh đạo trong cuộc Cách mạng Philippines. Ông là
**Pío Valenzuela y Alejandrino** (11 tháng 7 năm 1869 - 6 tháng 4 năm 1956) là một bác sĩ người Philippines và là một nhà lãnh đạo cách mạng. Năm 23 tuổi, ông gia nhập
**Deodato de la Cruz Arellano** (26 tháng 7 năm 1844 - 7 tháng 10 năm 1899) là một nhà tuyên truyền người Philippines và là Chủ tịch đầu tiên của tổ chức Katipunan. Ông sinh
**Teodoro de Jesus Plata** (khoảng 1866 - 6 tháng 2 năm 1897) là một nhà yêu nước người Philippines, đồng thời là người đồng sáng lập Katipunan, một tổ chức bí mật với mục đích
**Ladislao Diwa y Nocon** (27 tháng 6 năm 1863 - 12 tháng 3 năm 1930) là một nhà yêu nước người Philippines, một trong số những người sáng lập ra tổ chức Katipunan khởi xướng
**José Rizal** (19 tháng 6 năm 1861 – 30 tháng 12 năm 1896) là nhà thơ, thầy thuốc và nhà hoạt động dân chủ của Philippines. Ngày mất của ông được chính thức chọn là
nhỏ|Bản đồ của Compostela Valley với vị trí của Maragusan **Maragusan** là một đô thị hạng 3 ở tỉnh Compostela Valley, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số
**Lịch sử Philippines** khác biệt nhiều mặt so với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, là nước duy nhất không bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và Ấn giáo, Philippines ngày nay là
**Cuộc chiến tranh Philippines-Mỹ** (còn gọi là **Chiến tranh Philippines**, **Cuộc nổi dậy Philippines**, **Cuộc nổi dậy Tagalog**; tiếng Tagalog: _Digmaang Pilipino-Amerikano_, tiếng Tây Ban Nha: _Guerra Filipino-Estadounidense_, tiếng Anh: _Philippine-American War_) là một cuộc
**Chính trị Philippines** được tổ chức trong khuôn khổ của một chế độ dân chủ, tam quyền phân lập. Tổng thống Philippines là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ, thực hiện
**Nội các Philippines** (Filipino: _Gabinete ng Pilipinas_) là cơ quan đứng đầu ngành hành pháp của chính quyền Philippines. Hiện nội các bao gồm Bộ trưởng và người đứng đầu của một số cơ quan
**Emilio Aguinaldo y Famy** (23 tháng 3 năm 1869 – 6 tháng 2 năm 1964) là một nhà cách mạng, nhà chính trị, và thủ lĩnh quân sự người Philippines. Ông chính thức được công
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
phải|Bản đồ của Agusan del Norte với vị trí của Las Nieves **Las Nieves** là đô thị hạng 3 ở tỉnh Agusan del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này
phải|Bản đồ của Agusan del Sur với vị trí của Loreto **Loreto** là một đô thị hạng 1 ở tỉnh Agusan del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có
phải|Bản đồ của Agusan del Sur với vị trí của Veruela **Veruela** là đô thị hạng 3 ở tỉnh Agusan del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân
phải|Bản đồ của Aklan với vị trí của Buruanga **Buruanga** đô thị hạng 5 ở tỉnh Aklan, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 19.003 người trong. Đô
Bản đồ Bohol với vị trí của Alicia phải phải **Alicia** là đô thị hạng 4 ở tỉnh Bohol, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 23.422 người.
phải|Bản đồ Bohol với vị trí của Clarin **Clarin** là đô thị hạng 5 ở tỉnh Bohol, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 18.871 người. ## Các
**Loon** là đô thị hạng 2 ở tỉnh Bohol, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 42.441 người. ## Các đơn vị hành chính Loon về mặt hành
**Sagbayan** là đô thị hạng 5 ở tỉnh Bohol, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 19.,399 người. ## Các đơn vị hành chính Sagbayan về mặt hành
phải|Bản đồ của Basilan với vị trí của Tuburan **Tuburan** là một đô thị cấp ba ở tỉnh Basilan, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015, đô thị này có dân số 20.207 người
**Guipos** là một đô thị cấp năm ở tỉnh Zamboanga del Sur, Philippines. According to the 2007 census, it has a population of 19.616. ## Các đơn vị hành chính Guipos, về mặt hành chính,
**Midsalip** là một đô thị cấp bốn ở tỉnh Zamboanga del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số 28.909 người trong 5.479 hộ. ## Các đơn vị
**Ramon Magsaysay** là một đô thị cấp bốn ở tỉnh Zamboanga del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số 23.323 người trong 4.741 hộ. ## Các đơn
phải|Bản đồ Surigao del Norte với vị trí của Pilar **Pilar** là một đô thị hạng 5 ở đảo Siargao, tỉnh Surigao del Norte, Philippines. Thông tin điều tra dân số năm 2007 của Philipin,
phải|Bản đồ Surigao del Norte với vị trí của Del Carmen|**Del Carmen** map **Del Carmen** là đô thị hạng 5 ở đảo Siargao, thuộc (tỉnh) Surigao del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm
phải|Bản đồ Southern Leyte với vị trí của Malitbog **Malitbog** là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Nam Leyte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số 19.320
phải|nhỏ|Bản đồ Leyte với vị trí của Hindang **Hindang** là một đô thị hạng 5 ở tỉnh Leyte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000 của Philipin, đô thị này có dân số 18.493
phải|nhỏ|Bản đồ Leyte với vị trí của Santa Fe **Santa Fe** là một đô thị hạng 5 ở tỉnh Leyte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, Santa Fe có dân số 15.042 người
phải|nhỏ|Bản đồ Misamis Oriental với vị trí của Magsaysay **Magsaysay** (Linugos) là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Misamis Oriental, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000 của Philipin, đô thị này có
phải|nhỏ|Bản đồ Misamis Oriental với vị trí của Villanueva **Villanueva** là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Misamis Oriental, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000 của Philipin, đô thị này có dân
phải|nhỏ|Bản đồ Misamis Occidental với vị trí của Plaridel **Plaridel** là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Misamis Occidental, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 33.073
phải|nhỏ|Bản đồ Misamis Occidental với vị trí của Sinacaban **Sinacaban** là một đô thị hạng 5 ở tỉnh Misamis Occidental, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000 của Philipin, đô thị này có dân
phải|nhỏ|Bản đồ Masbate với vị trí của Placer **Placer** là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Masbate, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2015 của Philipin, đô thị này có dân số 55.826
**Tanay** là một đô thị hạng 1 ở tỉnh Rizal, Philippines. Đô thị này có cự ly 57 km về phía đông Manila. Đô thị này có một số khu vực của dãy núi Sierra Madre
nhỏ|Bản đồ của Compostela Valley với vị trí của New Bataan **New Bataan** là một đô thị hạng 2 ở tỉnh Compostela Valley, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có
nhỏ|Bản đồ của Compostela Valley với vị trí của Laak **Laak** là một đô thị hạng 2 ở tỉnh Compostela Valley, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số
nhỏ|Bản đồ của Davao del Sur với vị trí của Sulop **Sulop** là một đô thị hạng 3 ở tỉnh Davao del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có
nhỏ|Bản đồ của Davao del Sur với vị trí của Padada **Padada** là một đô thị hạng 4 ở tỉnh Davao del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có
nhỏ|Bản đồ của Davao del Sur với vị trí của Matanao **Matanao** là một đô thị hạng 3 ở tỉnh Davao del Sur, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có
nhỏ|Bản đồ của Davao với vị trí của Kapalong **Kapalong** là một đô thị hạng 1 ở tỉnh Davao del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số
**Dagami** là một đô thị ở tỉnh Leyte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, thị xã này có dân số 29.240 người với 25.644 người sống ở nông thôn và 3.596 sống ở
nhỏ|Bản đồ của Davao del Norte với vị trí của Santo Tomas **Santo Tomas** là một đô thị hạng 1 ở tỉnh Davao del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị
nhỏ|Bản đồ của Cotabato với vị trí của Makilala **Makilala** là một đô thị hạng 2 ở tỉnh Cotabato, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2000, đô thị này có dân số 63.039 người
phải|nhỏ|Bản đồ Lanao del Norte với vị trí của Sapad **Sapad** là một đô thị hạng 5 ở tỉnh Lanao del Norte, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân