Các thiên thể Messier là tập hợp 110 thiên thể được định vị bởi nhà thiên văn học người Pháp Charles Messier trong quyển Danh mục Tinh vân và đám sao (Catalogue des Nébuleuses et des Amas d'Étoiles) xuất bản lần đầu năm 1774. Messier là một người săn tìm sao chổi và đã bị khó chịu mỗi khi tìm thấy một thiên thể trông giống nhưng không phải là sao chổi. Ông đã xuất bản danh bạ các vật thể đó để giúp các nhà săn tìm sao chổi khác tránh bị mất thời gian khi tìm thấy vật thể đã xác định là không phải sao chổi.
Lần xuất bản đầu tiên chứa 45 thiên thể chưa được đánh số (M1 đến M45). Mười tám thiên thể được Messier phát hiện, phần còn lại được các nhà thiên văn học khác quan sát trước đó. Đến năm 1780, danh mục đã tăng lên 70 thiên thể. Lần xuất bản cuối vào năm 1781, danh mục chứa 103 thiên thể và được in lại trong Connaissance des Temps (Hiểu Biết thời gian) vào năm 1784. Tuy nhiên, do lâu nay người ta cho rằng Messier đã bổ sung không chính xác Messier 102 nên tổng số vẫn là 102. Các nhà thiên văn học khác đã sử dụng các ghi chú bên lề trong các văn bản của Messier để hoàn thiện danh mục, cuối cùng đã điền vào danh mục lên tới 110 thiên thể. Nhiều thiên thể trong danh sách này ngày nay vẫn được biết đến với số thứ tự trong danh mục của Messier.
Danh mục bao gồm một loạt các Thiên thể, từ các cụm sao và tinh vân cho đến các thiên hà. Ví dụ, Messier 1 là một tàn tích siêu tân tinh còn được gọi là Tinh vân Con Cua và Thiên hà Tiên Nữ xoắn ốc lớn là Messier 31. Tiếp theo là bao gồm, bổ sung đầu tiên đến từ Nicolas Camille Flammarion vào 1921, ông đã thêm Messier 104 sau khi tìm thấy ghi chú bên lề của Messier trong mẫu danh mục ấn bản năm 1781 của ông. Messier 105 đến Messier 107 được Helen Sawyer Hogg bổ sung vào năm 1947, Messier 108 và Messier 109 bổ sung bởi Owen Gingerich vào năm 1960 và Messier 110 bổ sung bởi Kenneth Glyn Jones vào năm 1967.
Quan sát
Danh sách Messier được thực hiện từ các công trình của các nhà thiên văn ở Bắc bán cầu Trái Đất, do đó chỉ chứa các thiên thể nằm ở bắc thiên cầu cho tới các thiên thể có xích vĩ nhỏ nhất là –35°. Nhiều thiên thể đẹp và lớn ở Nam thiên cầu, như các Đám mây Magellan Lớn và Nhỏ không có mặt. Các thiên thể Messier đều có thể được quan sát bởi mắt thường hoặc bởi ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ khi trời quang và xa thành thị, chúng được các nhà thiên văn nghiệp dư ưa chuộng. Vào đầu mùa xuân, một số người có thể tụ tập và quan sát trong một đêm tất cả các thiên thể Messier, gọi là "Messier Marathon".
Danh sách Thiên thể Messier
Bản đồ sao thiên thể Messier
CHÚ THÍCH: Messier 102 bị thiếu trong bản đồ này.
frame|center|Bản đồ sao mô tả các thiên thể Messier được vẽ trên một lưới hình chữ nhật đại diện cho [[xích kinh và xích vĩ]]
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Các **thiên thể Messier** là tập hợp 110 thiên thể được định vị bởi nhà thiên văn học người Pháp Charles Messier trong quyển _Danh mục Tinh vân và đám sao_ (_Catalogue des Nébuleuses et
**Messier 105** hoặc **M105**, còn được gọi là **NGC 3379**, là một thiên hà hình elip cách xa chúng ta 36,6 triệu năm ánh sáng trong chòm sao xích đạo Sư Tử. Nó được Pierre
**Messier 86** (còn được biết đến với tên **M86** hay **NGC 4406**) là tên của một thiên hà hình hạt đậu hay thiên hà elip nằm trong chòm sao Thất Nữ. Năm 1781, nhà thiên
**Thiên hà Tam Giác** là một thiên hà xoắn ốc cách xấp xỉ Trái Đất 3 triệu năm ánh sáng (ly) trong chòm sao Tam Giác. Nó có danh lục là **Messier 33** hay **NGC
**Messier 47** hay **M47** hoặc **NGC 2422** là một cụm sao phân tán trong chòm sao Thuyền Vĩ. Nó được Giovanni Batista Hodierna phát hiện trước năm 1654 và được Charles Messier phát hiện độc
**Messier 95** (còn gọi là _M95_ hay _NGC 3351_) là một thiên hà xoắn ốc có thanh cách Trái Đất khoảng 33 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Sư Tử. Nó được Pierre Méchain
**Messier 103** (còn gọi là **M103**, hay **NGC 581**) là cụm sao phân tán trong chòm sao Tiên Hậu. Nó được Pierre Méchain phát hiện vào năm 1781. M103 có tuổi khoảng 25 triệu năm
nhỏ|252x252px|Một vài tinh vân trong [[chòm sao Orion, thường được gọi là _thiên thể bầu trời sâu_]] Một **thiên thể bầu trời sâu** (deep-sky object, **DSO**) hay **thiên thể xa** là một thiên thể không
**Thiên hà Sombrero** (còn gọi là **thiên thể Messier 104**, **M104**, **thiên hà Mũ Vành Rộng** hoặc **NGC 4594**) là một thiên hà xoắn ốc không có thanh ngang trong chòm sao Xử Nữ, nằm
Đây là **danh sách các thiên thể NGC 6001 – 7000** từ Danh mục chung mới về các tinh vân và cụm sao (NGC). Danh mục thiên văn bao gồm chủ yếu các quần tinh,
**Messier 102** (còn được gọi là **M102**) là một thiên hà được liệt kê trong Danh lục Messier chưa được xác định rõ ràng. Pierre Méchain, người đầu tiên phát hiện ra nó, nói rằng
**Messier 77** (còn gọi là **_ NGC 1068_** , **_ Cetus A_**) là một thiên hà xoắn ốc có thanh nằm cách Trái Đất 47 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Kình Ngư (Cetus).
**Messier 87** (hay còn có tên gọi khác là **Xử Nữ A** hoặc **NGC 4486**, thường được viết gọn là **M87**) là một thiên hà elip siêu khổng lồ gồm 1 nghìn tỷ ngôi sao
**Messier 84** hoặc **M84**, còn được gọi là **NGC 4374**, là một elip hoặc thiên hà dạng thấu kính trong chòm sao Xử Nữ. Charles Messier đã phát hiện ra Messier 84 vào ngày 18
**Messier 15** hay **M15** (còn gọi là **NGC 7078**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Phi Mã (Pegasus). Nó được Jean-Dominique Maraldi phát hiện năm 1746 và được đưa vào danh lục các
**Messier 62** hay **M62** hoặc **NGC 6266** là một cụm sao cầu trong chòm sao xích đạo Xà Phu. Nó được Charles Messier phát hiện vào ngày 7 tháng 6 năm 1771, sau đó được
**Messier 7** hay **M7**, còn gọi là **NGC 6475** và đôi khi là **cụm sao Ptolemy**, là một cụm sao phân tán gồm các ngôi sao trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Cụm sao này
**Messier 69** (còn gọi là **M69** hay **NGC 6637**) là cụm sao cầu trong chòm sao Nhân Mã. Nó được Charles Messier phát hiện vào ngày 31 tháng 8, 1780, cùng đêm đó ông phát
[[Cụm sao cầu **Messier 4** dưới kính viễn vọng nghiệp dư]] **Messier 4** hay **M4** (còn gọi là **NGC 6121**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Nó được Philippe Loys
nhỏ|Ảnh hồng ngoại của M34 **Messier 34** (hay còn được biết với những cái tên khác như NGC 1039 hoặc M34) là tên của một Cụm sao mở nằm trong chòm sao Anh Tiên. Nó
**Messier 73** (**M73**, còn được gọi là **NGC 6994**) là một khoảnh sao gồm bốn ngôi sao trong chòm sao Bảo Bình. Một khoảnh sao là tập hợp bao gồm các ngôi sao không liên
**Messier 55** (còn được gọi là **M55** hay **NGC 6809**) là cụm sao cầu trong chòm sao Nhân Mã. Nó được Nicolas Louis de Lacaille phát hiện vào ngày 16 tháng 6 năm 1752 trong
**Messier 54** (còn được gọi là **M54** hoặc **NGC 6715**) là cụm sao cầu trong chòm sao Nhân Mã. Nó được Charles Messier phát hiện vào năm 1778 và sau đó được đưa vào danh
**Messier 5** hay **M5** (còn gọi là **NGC 5904**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Cự Xà (Serpens). Nó được Gottfried Kirch phát hiện năm 1702. Không nên nhầm lẫn nó với cụm
**Thiên hà Chong Chóng** (còn gọi là **Messier 101**, **M101** hay **NGC 5457**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian vì có thể thấy những nhánh xoắn ốc mở rộng ra ngoài. Thiên hà
Tinh vân **Messier 78** (còn gọi là **M 78** hay **NGC 2068**) là tinh vân phản xạ trong chòm sao Lạp Hộ. Nó được Pierre Méchain phát hiện vào năm 1780 và Charles Messier đưa
**Messier 71** (còn được gọi là **M71** hoặc **NGC 6838**) là cụm sao cầu trong chòm sao Thiên Tiễn. Nó được Philippe Loys de Chéseaux phát hiện vào năm 1745 và được Charles Messier đưa
**Messier 74**, hay còn gọi là **NGC 628**, **UGC 1149** hoặc **PGC 5974**. Nó nằm trong chòm sao Song Ngư. Thiên hà này có 2 trục xoắn ốc và vì thế nó cũng là một
**Messier 19** hay **M19** (còn gọi là **NGC 6273**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Xà Phu. Nó được Charles Messier phát hiện vào năm 1764 và trong cùng năm này ông liệt
**Cụm sao cầu M107** (còn gọi là **Messier 107** hay **NGC 6171**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Xà Phu. Pierre Méchain đã phát hiện ra nó vào tháng Tư 1782 và William
**Messier 18** hay **M18** (còn gọi là **NGC 6613**) là một cụm sao mở chứa các sao trong chòm sao Nhân Mã. Charles Messier đã phát hiện ra nó vào năm 1764 và ông liệt
**Messier 10** hay **M10** (còn gọi là **NGC 6254**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Xà Phu (Ophiuchus). Thiên thể này được Charles Messier phát hiện ngày 29/5/1764 và ông lập danh lục
**Messier 75** (hay còn gọi **M75** hoặc **NGC 6864**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Nhân Mã. Pierre Méchain phát hiện ra nó vào năm 1780 và Charles Messier liệt kê nó vào
**Thiên hà Tiên Nữ**, hay **tinh vân Tiên Nữ**, **thiên hà Andromeda** và các tên như **Messier 31**, **M31** hay **NGC 224**, là thiên hà xoắn ốc có vị trí biểu kiến thuộc chòm sao
|- |Các thiên thể và vật thể tuyển chọn: * Mặt trăng Mimas và Ida, một tiểu hành tinh có mặt trăng của chính nó * Sao chổi Lovejoy và sao Mộc, một hành tinh
**Messier 59** hoặc **M59**, còn được gọi là **NGC 4621**, là một thiên hà hình elip trong chòm sao xích đạo Xử Nữ. M59 là một thành viên của cụm thiên hà Xử Nữ, với
**Messier 88** (còn gọi là _M88_ hay _NGC 4501_) là thiên hà xoắn ốc nằm cách hệ Mặt Trời khoảng 60 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Hậu Phát. Charles Messier phát hiện ra
**Messier 100** (còn được gọi là **NGC 4321**) là một ví dụ của một thiên hà cấu trúc xoắn ốc lớn nằm ở phần phía nam của chòm sao Hậu Phát. Nó là một trong
Charles Messier **Charles Messier** (26 tháng 7 năm 1730 ở vùng Badonviller, tỉnh Meurthe-et-Moselle, Pháp – 12 tháng 4 năm 1817 tại Paris) là một nhà thiên văn, người đã xuất bản một danh mục với
nhỏ|Thiên hà M58 **Messier 58** (còn được gọi bằng những tên gọi khác là **M58** và **NGC 4579**) là một thiên hà trung gian xoắn ốc nằm trong chòm sao Xử Nữ, cách Trái Đất
**Messier 92** (còn gọi là _M92_ hay _NGC 6341_) là cụm sao cầu trong chòm sao Vũ Tiên. Johann Elert Bode phát hiện ra nó vào năm 1777 và độc lập bởi Charles Messier vào
nhỏ|306x306px|Ảnh chụp của Messier 81 từ tia hồng ngoại. **Messier 81** hay còn được gọi là **Thiên hà của Bode** hay **NGC 3031** là một thiên hà xoắn ốc hoàn mỹ nằm trong chòm sao
**Messier 60** hoặc **M60**, còn được gọi là **NGC 4649**, là một thiên hà hình elip cách chúng ta xấp xỉ 57 triệu năm ánh sáng trong chòm sao xích đạo Xử Nữ. Cùng với
**Messier 106** (còn được gọi là **NGC 4258**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian trong chòm sao Lạp Khuyển. Nó được Pierre Méchain phát hiện vào năm 1781. M106 nằm cách Trái Đất
**Messier 9** hay **M9** (còn gọi là **NGC 6333**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Xà Phu (Ophiuchus). Nó nằm ở phần phía nam của chòm sao, phía tây nam của Eta Ophiuchi
**Messier 66** (hay _NGC 3627_) là thiên hà xoắn ốc trung gian (intermediate spiral galaxy) cách Trái Đất 36 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Sư Tử. Charles Messier phát hiện ra nó vào
**Messier 85** (hay các tên gọi khác là **M85**, **NGC 4382**, **PGC 40515** hoặc **ISD 0135852**) là một thiên hà hình hạt đậu hoặc là một thiên hà elip (theo các tác giả khác nhau)
**Messier 46** hay **M46** còn được gọi là **NGC 2437**, là một cụm sao phân tán trong chòm sao Thuyền Vĩ. Nó được Charles Messier phát hiện vào năm 1771 và được John Louis Emil
**Messier 98**, còn gọi là M98 hoặc NGC 4192, là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm cách chừng khoảng 44,4 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Hậu Phát, khoảng 6 ° về
thumb|Thiên hà xoắn ốc M91. Ảnh của 2MASS/UMass/IPAC-Caltech/NASA/NSF. **Messier 91** (còn gọi là _M91_ hay _NGC 4548_) là thiên hà xoắn ốc có thanh cách Trái Đất khoảng 63 triệu năm ánh sáng trong chòm