[[Cụm sao cầu Messier 4 dưới kính viễn vọng nghiệp dư]]
Messier 4 hay M4 (còn gọi là NGC 6121) là một cụm sao cầu trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Nó được Philippe Loys de Chéseaux phát hiện năm 1746 và được Charles Messier lập danh lục năm 1764. Nó là cụm sao cầu đầu tiên mà các ngôi sao riêng lẻ được phân giải.
Khả năng nhìn thấy
M4 là dễ thấy thậm chí với các kính viễn vọng nhỏ nhất như là một quả cầu sáng mờ. Nó xuất hiện trong bầu trời đêm với kích thước cỡ như Mặt Trăng. Nó là một trong những cụm sao cầu dễ tìm nhất, do chỉ nằm cách ngôi sao sáng Antares (sao Tâm 2) khoảng 1,3 độ về phía tây, với cả hai thiên thể đều nhìn thấy được bằng kính viễn vọng trường quan sát rộng. Các kính viễn vọng kích thước khiêm tốn sẽ phân giải các ngôi sao riêng lẻ trong đó sáng nhất trong M4 là các sao có cấp sao biểu kiến bằng 10,8.
Đặc trưng
M4 là cụm sao tập trung khá lỏng lẻo thuộc cấp IX và bề ngang đạt 75 năm ánh sáng. Điểm đặc biệt của nó là một cấu trúc "thanh chắn" ngang qua lõi của nó, được nhìn thấy với các kính viễn vọng kích thước vừa phải. Cấu trúc này bao gồm các ngôi sao có cấp sao biểu kiến cỡ 11 và dài khoảng 2,5', lần đầu tiên được William Herschel lưu ý vào năm 1783. Ít nhất có 43 sao biến quang đã được quan sát trong M4.
M4 cách xa Trái Đất khoảng 7.200 năm ánh sáng, xấp xỉ khoảng cách như NGC 6397, làm cho chúng là các cụm sao cầu gần nhất với hệ Mặt Trời. Người ta ước tính nó khoảng 12,2 tỷ năm tuổi.
Trong thiên văn học, độ phổ biến của các nguyên tố không phải hiđrô và heli được gọi là độ kim loại, và nó thường được biểu thị theo tỷ lệ phổ biến của sắt so với hiđrô so với tỷ lệ ấy của Mặt Trời. Đối với cụm sao cầu này, độ phổ biến của sắt đã đo được là tương đương với:
:
Giá trị này là logarit của tỷ lệ sắt trên hiđrô tương đối so với cùng tỷ lệ như vậy trong Mặt Trời. Như thế cụm sao này có độ phổ biến của sắt tương đương 8,5% độ phổ biến của sắt trong Mặt Trời. Dựa trên các đo đạc độ phổ biến, có chứng cứ cho thấy cụm sao này chứa 2 quần sao khác biệt. Mỗi quần sao là một nhóm các ngôi sao đã hình thành xấp xỉ cùng thời gian. Vì vậy, cụm sao này có thể đã trải qua ít nhất là 2 chu trình hình thành sao tách biệt
Các thành phần vận tốc không gian của cụm này là (U, V, W) = (, , ) km/s. Nó di chuyển trên một quỹ đạo xuyên qua Ngân Hà có chu kỳ bằng và có độ lệch tâm 0,80 ± 0,03. Ở cận điểm quỹ đạo của mình, nó tới gần lõi Ngân Hà khoảng , trong khi ở viễn điểm quỹ đạo nó di chuyển ra xa tới khoảng cách . Độ nghiêng quỹ đạo là góc khoảng so với mặt phẳng Ngân Hà, đem nó tới khoảng cách nhiều tới phía trên đĩa Ngân Hà. Khi vượt qua đĩa Ngân Hà, cụm sao này đạt tới khoảng cách nhỏ hơn 5 kpc từ nhân Ngân Hà. Cụm sao này trải qua sốc thủy triều trong mỗi lần vượt qua, có thể gây ra sự rơi rụng các ngôi sao lặp đi lặp lại. Vì thế cụm sao này có thể từng đồ sộ hơn trong quá khứ.
Các ngôi sao đáng chú ý
Các bức ảnh chụp bằng kính viễn vọng không gian Hubble năm 1995 đã phát hiện các sao lùn trắng trong M4 thuộc số các sao già nhất đã biết trong dải Ngân Hà với độ tuổi khoảng 13 tỷ năm. Một trong các sao lùn trắng như vậy là một hệ sao đôi với một sao đồng hành là sao xung, gọi là PSR B1620-26 và một hành tinh (PSR B1620-26 b) quay xung quanh nó với khối lượng gấp 2,5 lần khối lượng Sao Mộc.
Năm 1987, một sao xung mili giây đã được phát hiện trong M4 với chu kỳ 3,0 mili giây hay khoảng 10 lần nhanh hơn sao xung Con Cua.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Cụm sao cầu **Messier 4** dưới kính viễn vọng nghiệp dư]] **Messier 4** hay **M4** (còn gọi là **NGC 6121**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Nó được Philippe Loys
**Messier 87** (hay còn có tên gọi khác là **Xử Nữ A** hoặc **NGC 4486**, thường được viết gọn là **M87**) là một thiên hà elip siêu khổng lồ gồm 1 nghìn tỷ ngôi sao
**Messier 100** (còn được gọi là **NGC 4321**) là một ví dụ của một thiên hà cấu trúc xoắn ốc lớn nằm ở phần phía nam của chòm sao Hậu Phát. Nó là một trong
**Messier 102** (còn được gọi là **M102**) là một thiên hà được liệt kê trong Danh lục Messier chưa được xác định rõ ràng. Pierre Méchain, người đầu tiên phát hiện ra nó, nói rằng
**Winnecke 4** (còn gọi là **Messier 40** hay **WNC 4**) là cặp sao trong chòm sao Đại Hùng. Charles Messier phát hiện ra nó vào 1764 trong khi ông đang tìm một tinh vân mà
nhỏ|Thiên hà M90 qua kính thiên văn vũ trụ Hubble **Messier 90** (còn được gọi bằng những tên khác là **M90, NGC 4569, UGC 7786, PGC 42089, Arp 76**) là một thiên hà xoắn ốc
**Messier 88** (còn gọi là _M88_ hay _NGC 4501_) là thiên hà xoắn ốc nằm cách hệ Mặt Trời khoảng 60 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Hậu Phát. Charles Messier phát hiện ra
**Messier 59** hoặc **M59**, còn được gọi là **NGC 4621**, là một thiên hà hình elip trong chòm sao xích đạo Xử Nữ. M59 là một thành viên của cụm thiên hà Xử Nữ, với
**Messier 98**, còn gọi là M98 hoặc NGC 4192, là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm cách chừng khoảng 44,4 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Hậu Phát, khoảng 6 ° về
**Messier 15** hay **M15** (còn gọi là **NGC 7078**) là một cụm sao cầu trong chòm sao Phi Mã (Pegasus). Nó được Jean-Dominique Maraldi phát hiện năm 1746 và được đưa vào danh lục các
**Messier 48** hay **M48** hoặc còn được biết đến với tên **NGC 2548**, là tên của một cụm sao mở nằm trong chòm sao Trường Xà. Năm 1771, nhà thiên văn học người Pháp Charles
**Messier 62** hay **M62** hoặc **NGC 6266** là một cụm sao cầu trong chòm sao xích đạo Xà Phu. Nó được Charles Messier phát hiện vào ngày 7 tháng 6 năm 1771, sau đó được
**Messier 46** hay **M46** còn được gọi là **NGC 2437**, là một cụm sao phân tán trong chòm sao Thuyền Vĩ. Nó được Charles Messier phát hiện vào năm 1771 và được John Louis Emil
nhỏ|Thiên hà M58 **Messier 58** (còn được gọi bằng những tên gọi khác là **M58** và **NGC 4579**) là một thiên hà trung gian xoắn ốc nằm trong chòm sao Xử Nữ, cách Trái Đất
nhỏ|Thiên hà M96 **Messier 96** (còn được gọi là **M96** hoặc **NGC 3368**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm trong chòm sao Sư Tử cách chúng ta khoảng 35 triệu năm ánh
**Messier 21** hay **M21** (còn được định danh là **NGC 6531**) là một cụm sao mở chứa các sao trong chòm sao Nhân Mã. Nó được Charles Messier phát hiện và định danh vào ngày
**Messier 60** hoặc **M60**, còn được gọi là **NGC 4649**, là một thiên hà hình elip cách chúng ta xấp xỉ 57 triệu năm ánh sáng trong chòm sao xích đạo Xử Nữ. Cùng với
**Messier 106** (còn được gọi là **NGC 4258**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian trong chòm sao Lạp Khuyển. Nó được Pierre Méchain phát hiện vào năm 1781. M106 nằm cách Trái Đất
nhỏ|Thiên hà M61 qua kính viễn vọng không gian Hubble **Messier 61** (còn được gọi là **M61** hoặc **NGC 4303**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm trong chòm sao Xử Nữ. Nó
thumb|Thiên hà xoắn ốc M91. Ảnh của 2MASS/UMass/IPAC-Caltech/NASA/NSF. **Messier 91** (còn gọi là _M91_ hay _NGC 4548_) là thiên hà xoắn ốc có thanh cách Trái Đất khoảng 63 triệu năm ánh sáng trong chòm
**Messier 73** (**M73**, còn được gọi là **NGC 6994**) là một khoảnh sao gồm bốn ngôi sao trong chòm sao Bảo Bình. Một khoảnh sao là tập hợp bao gồm các ngôi sao không liên
**Messier 89** (viết tắt là **M89**, còn được gọi là **NGC 4552**) là một thiên hà elip trong chòm sao Xử Nữ. Nó được Charles Messier phát hiện vào ngày 18 tháng 3 năm 1781.
**Messier 85** (hay các tên gọi khác là **M85**, **NGC 4382**, **PGC 40515** hoặc **ISD 0135852**) là một thiên hà hình hạt đậu hoặc là một thiên hà elip (theo các tác giả khác nhau)
**Messier 18** hay **M18** (còn gọi là **NGC 6613**) là một cụm sao mở chứa các sao trong chòm sao Nhân Mã. Charles Messier đã phát hiện ra nó vào năm 1764 và ông liệt
**Messier 72** (còn gọi là **M72** hay **NGC 6981**) là cụm sao cầu trong chòm sao Bảo Bình do Pierre Méchain phát hiện ngày 29 tháng 8 năm 1780. Charles Messier sau đấy đã quan
**Messier 37** (còn được gọi là **M37** hoặc **NGC 2099**) là cụm sao mở phong phú nhất trong chòm sao Ngự Phu. Nó là cụm sáng nhất trong ba cụm sao mở của chòm sao
**Cụm sao phân tán M36** (còn gọi là **Messier 36**, **M36**, hay **NGC 1960**) là cụm sao phân tán trong chòm sao Ngự Phu. Nó được Giovanni Batista Hodierna phát hiện ra trước năm 1654.
**Messier 41** (còn gọi là **M41** hay **NGC 2287**) là cụm sao phân tán trong chòm sao Đại Khuyển. Giovanni Batista Hodierna khám phá ra nó trước năm 1654 và có lẽ Aristotle đã biết
Charles Messier **Charles Messier** (26 tháng 7 năm 1730 ở vùng Badonviller, tỉnh Meurthe-et-Moselle, Pháp – 12 tháng 4 năm 1817 tại Paris) là một nhà thiên văn, người đã xuất bản một danh mục với
**Tinh vân Lạp Hộ** hay **Tinh vân Orion** (**Messier 42**, **M42** hay **NGC 1976**) là tinh vân phát xạ có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Lạp Hộ, được nhà thiên văn học
**Thiên hà Tam Giác** là một thiên hà xoắn ốc cách xấp xỉ Trái Đất 3 triệu năm ánh sáng (ly) trong chòm sao Tam Giác. Nó có danh lục là **Messier 33** hay **NGC
**Messier 38** hay **M38**, **NGC 1912** hoặc **Cụm sao Sao Biển** là tên của một cụm sao mở nằm trong chòm sao Ngự Phu. Trước năm 1654, nhà thiên văn học người Ý Giovanni Battista
**Cụm sao Hồ Điệp** (còn gọi là **Messier 6**, **M6** hay **NGC 6405**) là một cụm sao phân tán gồm các ngôi sao nằm trong chòm sao Thiên Yết (Scorpius). Tên gọi của nó xuất
**Tinh vân Con Cua** (các tên gọi danh lục M1, NGC 1952, Taurus A) là một tinh vân gió sao xung trong chòm sao Kim Ngưu, đồng thời là tàn tích của siêu tân tinh Thiên
**Thiên hà Xì Gà** (còn được gọi là **NGC 3034**, **Messier 82** hoặc **M82**) là một thiên hà bùng nổ sao cách đây khoảng 12 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Đại Hùng. Một
--> | dist_ly = | group_cluster = Siêu đám Xử Nữ | type = (R)SA(rs)ab, HIISy2 | mass = | mass_light_ratio = | size = | stars = | appmag_v = | appmag_b = |
**Tinh vân Lagoon** (danh lục **Messier 8** hay **M8**, hoặc **NGC 6523**) là một đám mây giữa các ngôi sao khổng lồ trong chòm sao Nhân Mã. Nó được phân loại thành tinh vân phát
Đây là **danh sách các thiên thể NGC 6001 – 7000** từ Danh mục chung mới về các tinh vân và cụm sao (NGC). Danh mục thiên văn bao gồm chủ yếu các quần tinh,
**Thiên hà Tiên Nữ**, hay **tinh vân Tiên Nữ**, **thiên hà Andromeda** và các tên như **Messier 31**, **M31** hay **NGC 224**, là thiên hà xoắn ốc có vị trí biểu kiến thuộc chòm sao
nhỏ|Hình ảnh của NGC 3201 chụp bằng [[kính viễn vọng không gian Hubble]] **NGC 3201** (hay còn được biết đến với tên gọi khác là **Caldwell 79**) là tên của một cụm sao cầu nằm
**Tinh vân Omega**, còn gọi là **tinh vân Thiên Nga**, **tinh vân Móng Ngựa**. Phác họa thứ hai và chi tiết hơn được thực hiện trong chuyến đi tới Nam Phi năm 1837 của ông.
**PSR B1620−26** là một hệ sao đôi nằm ở khoảng cách 3.800 Parsec (12.400 năm ánh sáng) trong cụm cầu sao của Messier 4 (M4, NGC 6121) trong chòm sao Scorpius (Thiên Yết).
**NGC 6144** là cụm sao cầu trong chòm sao Thiên Yết, nằm cách một cụm sao cầu sáng hơn là Messier 4 gần như chính xác 1°.
**Pierre François André Méchain** (sinh 16 tháng 8 năm 1744-mất 22 tháng 9 năm 1804) là nhà thiên văn học người Pháp. Ông là giám đốc Đài thiên văn Paris từ năm 1800 cho đến
**Nhánh Orion** hay **Nhánh Lạp Hộ** là một nhánh xoắn ốc nhỏ của Ngân Hà, có bề rộng 3.500 năm ánh sáng và bề dài xấp xỉ 10.000 năm ánh sáng. Hệ Mặt Trời và
**Sư Tử** ( 獅子) (tên Latinh **_Leo_**), biểu tượng Tập tin:Leo.svg là một chòm sao của hoàng đạo, là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại,
**Thiên Tiễn** (chữ Hán: 天箭, nghĩa là 'mũi tên trời'; tiếng Latinh: _Sagitta_, nghĩa là 'mũi tên') là một chòm sao mờ trên bầu trời bán cầu bắc và là chòm sao có diện tích
Cụm sao cầu [[Messier 80 trong chòm sao Thiên Yết cách Mặt Trời khoảng 28.000 năm ánh sáng và chứa hàng trăm nghìn sao.]] **Cụm sao cầu** (hay **quần tinh cầu** hoặc **đám sao cầu**)
Chòm sao **Đại Khuyển** 大犬 (phiên âm /ˌkeɪnɪs ˈmeɪdʒɚ/, Tiếng La Tinh:**_Canis Major_** nghĩa là _con chó lớn_) là một trong 48 chòm sao cổ điển của Ptolemy và là một trong 88 chòm sao
**Cự Xà** (tiếng Trung Quốc: 巨蛇; ) là một chòm sao trên bầu trời bán cầu bắc. Đây là một trong 48 chòm sao được nhà thiên văn học Ptolemy liệt kê vào thế kỷ