✨Thiên hoàng Nintoku

Thiên hoàng Nintoku

là vị Thiên hoàng thứ 16 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, và là vị vua thứ hai của Triều đại Ōjin của Nhà nước Yamato.

Theo cuốn Japan của tác giả David Murray, Thiên hoàng Ōjin muốn phân chia quyền lực giữa ba hoàng nam của ông, song lại muốn phong người con út làm Thái tử kế vị. Ōjin đã triệu tập cả ba hoàng tử đến và hỏi hoàng tử cả: "Nên chọn ai, con trưởng hay là con út ?" Vị hoàng tử cả này liền trả lời rằng người nối ngôi phải là con trưởng. Nhưng Thiên hoàng lại quay sang hỏi người con thứ của mình là Hoàng tử Osasagi, thì Osasagi cho rằng nên chọn con út lên kế vị, do con lớn đang trưởng thành lên nên không biết lo lắng. Thiên hoàng đẹp lòng với câu trả lời này, vì nó đúng ý với Thiên hoàng: Ōjin đã phong con út là Waka-iratsu làm Thái tử và sai Osasagi hỗ trợ em mình. Thiên hoàng cũng giao lại núi, sông, rừng và ruộng đất cho người con trưởng của mình.

Cai trị

phải|Thiên hoàng Nintoku -- chi tiết trong mộc bản được in ra bởi [[Toyohara Chikanobu (1886).]]

Nhật Bản Thư Kỷ cũng nói rõ rằng Thiên hoàng Nintoku trị vì từ năm 313 đến năm 399 (Murray cho biết ông thọ 110 tuổi

Theo sử sách, ông là vị vua hiền đức, rất có lòng thương dân. Ông được xem là vị Thiên hoàng huyền thoại duy nhất gần gũi với lý tưởng Nho giáo, và trở thành ông vua được mến mộ nhất trong ký ức của người Nhật. Trái ngược với Nintoku là một "anh quân", Thiên hoàng Buretsu là một "hôn quân" và trở thành vị Thiên hoàng cuối cùng thuộc dòng dõi của ông. Tương truyền, khi đứng trên ngọn đồi cao để quan sát dân tình, Nintoku cảm thấy không có khói bốc lên từ các nhà tranh, và nghĩ là trăm họ bị điêu đứng và đói khổ vì sưu cao thuê nặng, do đó ông đã ban Thánh chỉ xá thuế 3 năm liền. Trong thời gian đó ông cũng không thu thập cả những khoản tiền để tu sửa cung điện và cung cấp áo mũ cho Triều đình. Bản thân nhà vua cũng chỉ ăn mặc giản dị. Đức độ và lòng yêu mến nhân dân của Nintoku đã gây cho Hoàng hậu Iwano Hime nổi trận lôi đình: bà tức giận khi thấy ông xá thuế cho trăm họ khiến cung điện của ông bị mục nát. Nhưng rồi, khi hưng thịnh lại, thần dân đã tự nguyện nộp thuế và sửa sang cung vua. Khi lên lại ngọn đồi cũ ngày nào, Thiên hoàng đẹp dạ khi thấy những cánh đồng màu mỡ khói bốc nghi ngút từ các nhà tranh.

Cũng theo Nhật Bản Thư Kỷ, ông là một chiến binh bách thắng. Ông còn xuống lệnh cho các chuyên gia người Triều Tiên tham gia tưới tiêu và sửa sang đê điều. Ngoài ra, người ta nói rằng dưới triều Nintoku, các nhà chép sử được phái đến các tỉnh và nhận lệnh ghi nhận những sự kiện quan trọng rồi báo về Triều đình. Đây là một điểm ngoặt trong lịch sử Nhật Bản vì kể từ đó, các nhà sử học thời ấy đã có những ghi chép văn tự để chúng ta dựa theo. Cả hai đều theo kiểu kofun tiêu biểu cho loại mộ đảo hình lỗ khóa nằm trong một con mương rộng đầy nước. Đây là một quần thể dài 480m bao gồm hào nước, vườn cây nằm ở giữa cố đô Kyoto. Lăng mộ Thiên hoàng Nintoku được xây trên một mô đất cao 35m ở ngay khu trung tâm và được 3 hào nước bao bọc, trong đó có một hào nước lớn và hai hào nước nhỏ. Tuy công việc khảo cổ không được thực hiện ở những lăng tẩm như vậy, chắc hẳn rất nhiều vật quý được chôn theo Thiên hoàng.

Năm 1872, một phần lăng bị hư hại, lộ ra một căn phòng đá chứa quan tài. Có lẽ đây không phải là nơi an nghỉ chính thức của Thiên hoàng, nhưng nó chứa đựng một bộ giáp sắt và bình thủy tinh Ba Tư.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là vị Thiên hoàng thứ 16 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, và là vị vua thứ hai của Triều đại Ōjin của Nhà nước Yamato. Theo cuốn _Japan_ của tác
, hay thường gọi là _Ōjin ōkimi_ là Thiên hoàng thứ 15 của Nhật Bản, theo thứ tự kế vị truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của
là vị Thiên hoàng thứ 19 của Nhật Bản, theo Danh sách Nhật hoàng truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và thời đại của Thiên hoàng này. Ingyō được cho
là Thiên hoàng thứ 21 của Nhật Bản, theo trật tự kế vị truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và thời đại của Thiên hoàng này. Yūryaku được cho là
là vị Nhật hoàng thứ 17 theo danh sách Nhật hoàng truyền thống. Không có ngày tháng chính xác về thời gian trị vì và sinh sống của Nhật hoàng này. Richū được coi là
thumb|Hoàng hậu [[Saionji Kishi (1303–1333) và Thiên hoàng Go-Daigo (1288–1339) trong bản vẽ được lấy từ _Taiheiki Emaki_ (thế kỷ 17). Được sở hữu bởi Bảo tàng Lịch sử và Văn hóa dân gian tỉnh
Tại Nhật Bản, là tước vị được dành cho chính thất của Thiên hoàng, khi một người phụ nữ ngồi vào ngôi vị Nhật hoàng, bà ta sẽ được gọi là hay . Nhật Bản
, đôi khi còn được gọi là , là một nhà thơ và là Hoàng hậu của Thiên hoàng Nintoku, vị Thiên hoàng thứ 16 của Nhật Bản, theo danh sách truyền thống. Bà là
Một trang bản chép tay _Nihon Shoki_, đầu [[thời kỳ Heian]] hay **Yamato Bumi** là bộ sách cổ thứ hai về lịch sử Nhật Bản. Cuốn này tỉ mỉ và chi tiết hơn bộ cổ
là các vua của Nhật Bản cổ đại, đã gửi sứ giả tới Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5 để tăng cường tính hợp pháp của quyền lực cai trị bằng cách đạt được
**Niên hiệu Nhật Bản** là phần đầu, trong hai phần, của tên định danh cho năm trong lịch Nhật Bản. Phần sau là con số, bằng số năm tính từ lúc bắt đầu thời kỳ
**Thủ đô của Nhật Bản **trên thực tế hiện tại là Tokyo, với hoàng cung của Thiên Hoàng và văn phòng chính phủ Nhật Bản và nhiều tổ chức chính phủ. Cùng với đó thì
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Vương quyền Yamato** (tiếng Nhật: ヤマト王権) là tổ chức chính trị, quyền lực chính trị được hình thành trên cơ sở liên minh giữa một số thị tộc có thế lực, đã nắm ngôi vua