Thế Tổ miếu (世祖廟) thường gọi là Thế miếu (世廟) tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này.
Xây dựng
Nguyên ở nơi này trước kia là miếu thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long gọi là tòa Hoàng Khảo miếu. Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Hoàng Khảo miếu được dời lùi về phía bắc khoảng 50 mét để dành vị trí xây tòa Thế Tổ miếu thờ vua Gia Long và hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao hoàng đế (vì thế mới có tên gọi Thế Tổ miếu), nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị vua của triều Nguyễn.
Kiến trúc
trái|nhỏ|Bên trong Thế Miếu
Khuôn viên của Thế Tổ miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha, chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Thế Tổ miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây theo lối "trùng thiềm điệp ốc" đặt trên nền cao gần 1 m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9 gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ công từ, Cửu đỉnh, Hiển Lâm các, Canh Y điện, Tả tùng tự, Hữu tùng tự.
Các án thờ vua Nguyễn
nhỏ|379x379px|Sơ đồ khu vực các miếu thờ trong Hoàng thành Huế 1. Miếu môn 2. [[Hiển Lâm các 3. Thế Tổ miếu 4. Miếu môn 5. Hưng Tổ miếu 6. Tả Tùng tự 7. Hữu Tùng tự 8. Tuấn Liệt môn 9. Sùng Công môn 10. Cửu Đỉnh 11. Khải Dịch môn 12. Sùng Thành môn 13. Điện Canh Y 14. Thổ công từ 15. Hiển Hựu môn 16. Đốc Hựu môn 17. Thần Khố 18. Thần Trù 19. Chương Khánh môn 20. Dục Khánh môn 21. Trí Tường môn 22. Ứng Tường môn 23. Bia đá]]
Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của các vị vua còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu mục" để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị coi là "xuất đế" và "phế đế" đều không được thờ trong tòa miếu này, do đó, trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây:
Án thờ Thế Tổ Cao hoàng đế (vua Gia Long) và hai Hoàng hậu Thừa Thiên, Thuận Thiên ở gian chính giữa.
Án thờ Thánh Tổ Nhân hoàng đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu Tá Thiên ở gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa).
Án thờ Hiến Tổ Chương hoàng đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu Nghi Thiên ở gian hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa).
Án thờ Dực Tông Anh hoàng đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu Lệ Thiên ở gian tả nhị (gian thứ hai bên trái).
Án thờ Giản Tông Nghị hoàng đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải).
Án thờ Cảnh Tông Thuần hoàng đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu Phụ Thiên ở gian tả tam (gian thứ ba bên trái).
Án thờ Hoằng Tông Tuyên hoàng đế (vua Khải Định) và Đoan Huy hoàng thái hậu ở gian hữu tam (gian thứ ba bên phải).
Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 3 vị vua chống Pháp vốn bị liệt vào hàng "xuất đế" không được thờ trong Thế Tổ miếu là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân đã được Hội đồng Nguyễn Phúc tộc rước vào thờ ở Thế Tổ miếu. Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các án thờ Cung Tông Huệ hoàng đế (vua Dục Đức), Hiệp Hòa và Bảo Đại đến nay vẫn chưa có mặt trong Thế Tổ miếu.
Ngoại thất
Cửu đỉnh|trái
Bên ngoài Thế Tổ miếu, trước mặt là một khoảnh sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình. Cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn, tức Cửu đỉnh, đặt thẳng hàng với 9 gian thờ trong miếu.
Tiếp theo là Hiển Lâm các, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông, lầu trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch.
Bên dưới lầu chuông, lầu trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt môn (bên trái) và Sùng Công môn (bên phải).
Bên ngoài bờ tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Tùng tự và Hữu Tùng tự thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
Thổ công từ và Canh Y điện là những tòa nhà hình vuông nằm đối xứng với nhau theo chiều đông - tây của Thế Tổ miếu. Điện Canh Y nằm ở phía đông hiện chỉ là phế tích.
Ở sát thần phía tây của miếu còn có một cây thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tương truyền được trồng từ khi dựng Thế Tổ miếu.
Các công thần được phối thờ
-
Thái sư Hoài quốc công Võ Tánh (1768(?) - 1801)
-
Thái tử Thái sư Ninh Hòa quận công Ngô Tùng Châu (? - 1801)
-
Thái bảo Lâm Thao quận công Châu Văn Tiếp (? - 1784)
-
Thái bảo Bình Giang quận công Võ Di Nguy (? - 1801)
-
Thái phó Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương (? - 1810)
-
Thái phó Tiên Hưng quận công Phạm Văn Nhân (?-1815)
-
Thái phó Kiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức (? - 1819)
-
Thái tử Thái sư Tuân Nghĩa hầu Tống Phước Đạm (? - 1794)
-
Thiếu bảo Duy Tiên hầu Nguyễn Văn Mẫn (?-1789)
-
Thiếu phó Phụ Dực hầu Đỗ Văn Hựu (?-1789)
-
Thái bảo Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhơn (? - 1822)
-
Thái phó Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên (? - 1824)
-
Thái sư Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Tổ miếu** (世祖廟) thường gọi là **Thế miếu** (世廟) tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến
**Thái Tổ miếu** (太祖廟) hay **Thái miếu** là miếu thờ các vị chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Miếu thờ từ chúa Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Thuần. Miếu được xây dựng từ
**Hưng miếu** (興廟) hay **Hưng Tổ miếu** (興祖廟, _Hưng nghĩa là khởi nghiệp, nghĩa khác là thịnh vượng_) là ngôi miếu thờ Thế tử Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
Điện Thái Hoà và Sân Đại Triều Nghi **Sân Đại Triều Nghi** (𡓏大朝儀) hay **Sân Chầu ** là khoảng sân rộng trước Điện Thái Hòa nơi các quan đứng chầu trong các buổi đại thiết
**Điện Phụng Tiên** (chữ Hán: 奉先殿), có nghĩa _"Điện thờ phụng tổ tiên"_, là một ngôi điện nằm ở gần cửa Chương Đức, phía trước Cung Diên Thọ, cửa tây của Hoàng Thành, thành phố
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Kinh thành Huế**, **cố cung Huế** hay **Thuận Hóa kinh thành** (chữ Hán: 順化京城) là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
Sơ đồ khu vực các miếu thờ trong Hoàng thành Huế 1.Miếu môn 2.Hiển Lâm các 3.Thế Tổ miếu 4. Miếu môn 5.Hưng Tổ miếu 6.Tả Tùng tự 7.Hữu Tùng tự 8.Tuấn Liệt môn 9.Sùng
**Thái miếu** dưới các triều đại phong kiến phương Đông, là nơi thờ các vị vua đã qua đời của một triều đại. Thái miếu như vậy là miếu thờ của quốc chủ, là miếu
nhỏ|Tranh tường ở [[cung An Định, bên trái là Chấp Khiêm điện, ở giữa là Di Khiêm lâu và bên trái là cổng vào lăng mộ vua Kiến Phúc. ]] **Lăng Kiến Phúc,** hay **Bồi
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
nhỏ|382x382px|Ảnh phục dựng chân dung vua Hàm Nghi **Hàm Nghi** (chữ Hán: 咸宜 3 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 1 năm 1944), tên thật **Nguyễn Phúc Ưng Lịch** (阮福膺𧰡), là vị hoàng đế
**Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế** là một viện bảo tàng trực thuộc sự quản lý của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng
::_Xem các công trình có tên_ **Võ miếu** _tại bài Võ miếu (định hướng)_ Bia đá tại Võ miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong [[quần thể di tích cố đô
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
:_Xem các công trình có tên **_Văn miếu_** tại bài Văn miếu (định hướng)_ Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng
:_Bài này viết về một di tích thuộc Quần thể di tích cố đô Huế. Các trường khác có cùng tên được đề cập tại bài Quốc Tử Giám (định hướng)_ nhỏ|Ấn chương Quốc tử
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
nhỏ|300x300px|Một vài bài thơ được chạm khắc trong [[Điện Thái Hòa (Hoàng thành Huế)|điện Thái Hòa]] Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là toàn bộ hệ thống văn tự chữ Hán
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Cố đô Huế**, còn gọi là **Phú Xuân**, là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
**Đàn Nam Giao triều Nguyễn** (tiếng Hán: 阮朝南郊壇) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, quận Thuận Hóa, thành
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Đường Huyền Tông Võ Huệ phi** (chữ Hán: 唐玄宗武惠妃, ? - 737), còn gọi là **Trinh Thuận Hoàng hậu** (貞順皇后), là một sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Thiên Hậu Thánh Mẫu** () hay **bà Thiên Hậu**, còn gọi là **Ma Tổ** (媽祖), **Mẫu Tổ** (母祖), hay là **Thiên Thượng Thánh Mẫu** (天上聖母) hoặc **Thiên Hậu Nguyên quân** (天后元君); là một vị thần
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
**Nam Định** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Đây là một trong những thành phố được Pháp lập ra đầu tiên ở Liên bang Đông Dương. Nằm ở phía