thumb|Tàu điện động lực phân tán (EMU) [[Deutsche Bahn ICE 3 có thể đạt tới vận tốc ở Rhineland-Palatinate, Đức]]
Tàu điện động lực phân tán (Tiếng Anh: Electric Multiple Unit - EMU) là một loại tàu điện hợp bởi nhiều toa có thể tự hành, sử dụng điện làm năng lượng chuyển động. Nó không cần một đầu máy (ngược lại với động lực tập trung) để kéo cả đoàn tàu. Động lực phân tán thường được tạo thành từ hai hoặc nhiều toa kết hợp "bán vĩnh viễn" (hầu như không tách rời, hay nối/hợp các toa), bao gồm cả trường hợp nếu chỉ có một toa tự hành riêng lẻ. Phần lớn chúng là tàu chở khách, nhưng cũng có các loại khác được thiết kế chuyên mang theo bưu kiện và thư.
Các tàu điện động lực phân tán rất phổ biến phục vụ mạng lưới đường sắt đi làm hay kết nối các đô thị vệ tinh trên toàn thế giới do có ưu điểm là tăng tốc nhanh và gần như không gây ô nhiễm. Ít tiếng ồn hơn so với các tàu hỏa diesel động lực phân tán và tàu hỏa động lực tập trung thông thường, tàu điện động lực phân tán có thể phục vụ được muộn hơn và buổi đêm và chạy với tần suất dày đặc hơn mà không làm ảnh hưởng đến dân cư quanh đường sắt. Thêm vào đó, thiết kế đường hầm cho chúng cũng đơn giản hơn vì không cần thiết phải giải quyết vấn đề khí thải của tàu. Tải trọng của đoàn tàu cũng nhẹ hơn do không cần đầu máy nên giảm thiểu được chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng.
Lịch sử
thumb|Một toa xe động lực phân tán (EMU) bên trong [[Bảo tàng Liverpool]]
thumb|Toa số 1 của Đường sắt trên cao phía Nam, một trong các toa xe được Frank Sprague chuyển thành động lực phân tán ở Chicago
Các tàu điện động lực phân tán được sử dụng lần đầu từ những năm 1890.
Liverpool Overhead Railway được khánh thành năm 1893 với tàu có 2 toa động lực phân tán, các bộ điều khiển được đặt ở hai đầu sát nhau giữa 2 toa nhằm kiểm soát lượng điện đi vào mô tơ ở các toa.
Hệ thống điều khiển lực kéo phân tán được phát triển bởi Frank Sprague và được áp dụng và thử nghiệm lần đầu vào Đường sắt trên cao phía Nam (nay là một phần thuộc Chicago 'L') vào năm 1897. Tới năm 1895, bắt nguồn từ phát minh này và qua quá trình sản xuất các hệ thống điều khiển thang máy bằng điện một chiều, Frank Sprague đã phát minh ra bộ điều khiển phân tán cho tàu điện. Điều này góp phần tăng tốc xây dựng hệ thống đường sắt và hệ thống xe điện trên toàn thế giới. Mỗi toa đều có động cơ đẩy riêng: bằng các rơ-le điều khiển động cơ trong mỗi toa được cấp năng lượng bằng dây dẫn từ toa phía trước, tất cả các động cơ của cả tàu sẽ đạt được một tốc độ thống nhất.
Các loại toa
thumb|Tàu [[M8 (xe điện)|M8 của Tuyến đường sắt Metro-North đã được ghép đôi tại cảng Chester, New York]]
thumb|Một chiếc tàu điện EMU [[First ScotRail Class 380 đặt tại Haymarket ở Edinburgh, Scotland]]
Các toa của một tàu điện động lực phân tán thường được chia làm bốn loại: toa cấp năng lượng, toa động cơ, toa lái, toa kéo móc (không có động cơ). Mỗi toa cũng có thể đảm nhận nhiều hơn một nhiệm vụ, như vừa có động cơ và vừa có buồng lái hoặc vừa lấy điện vừa có buồng lái.
- Toa cấp năng lượng được trang bị thêm hệ thống lấy năng lượng từ hệ thống điện lưới đường sắt, như chân tiếp xúc (contact shoe) với hệ thống ray thứ ba hoặc que thu điện (đường sắt) (Pantograph (rail)) với hệ thông dây điện phía trên (overhead lines) và các bộ biến đổi điện.
- Toa động cơ có gắn các động cơ để đẩy tàu, và thường chính là toa cấp năng lượng nhằm tránh việc mất an toàn khi kết nối điện cao thế giữa các toa.
- Toa lái (Control car (rail)) sẽ chừa ra một diện tích nhỏ làm buồng lái cho người lái tàu. Một tàu điện động lực phân tán thường có hai toa lái nằm ở đầu và cuối tàu (nhằm đổi chiều di chuyển ngược xuôi dễ dàng).
- Toa kéo móc là các toa được trang bị ít hoặc không có động cơ đẩy, và cũng giống với các Toa hành khách (Passenger car (rail)) ở các tàu hỏa đầu kéo thông thường.
Có rất nhiều các tàu điện động lực phân tán chỉ bao gồm hai toa gọi là tàu cặp đôi (twin unit) hay tàu "cặp vợ chồng" (married pair). Trong khi mỗi toa đều có động cơ đẩy riêng thì các thiết bị phụ trợ (máy nén khí, các bình khí, ắc qui, hệ thống sạc, hệ thống điều khiển và kiểm soát động cơ,...) được dùng chung cho cả hai toa. Do đó khi hoạt động, toa này không thể thiếu "đối tác" là toa còn lại, và việc ghép cặp này coi như vĩnh viễn và chỉ chia tách khi cần bảo trì, bảo dưỡng ở khu depot. Ưu điểm của các tàu cặp đôi là có trọng lượng nhẹ và tiết kiệm chi phí trên mỗi đơn vị toa tàu (do giảm được một nửa chi phí cho các thiết bị phụ trợ trên mỗi đơn vị toa tàu) mà vẫn đảm bảo năng lực đẩy cho từng toa, ngược với thiết kế đầu máy - rơ móc thông thường. Tuy nhiên cũng có các nhược điểm như thiếu mất sự linh hoạt trong vận hành, khi các tàu phải hợp thành từ mỗi cặp 2 toa, và không thể hoạt động với một toa riêng lẻ và bắt buộc phải dừng sử dụng cả hai khi một trong hai toa không hoạt động.
Các ứng dụng
Nhiều hệ thống tàu điện cao tốc nổi tiếng trên thế giới sử dụng công nghệ động lực phân tán như: AGV ở Pháp, Pendolino ở Ý, Shinkansen ở Nhật Bản, Đường sắt cao tốc Trung Quốc ở Trung Quốc và ICE 3 ở Đức.
Đang phát triển
Công nghệ động lực phân tán được cung cấp năng lượng bởi các pin nhiên liệu đang được phát triển. Nếu thành công, sẽ không còn cần đến hệ thông dây điện phía trên hay hệ thống ray thứ ba nữa. Ví dụ như tàu Coradia iLint chạy bằng Hydro của công ty Alstom. Thuật ngữ hydrail nhằm chỉ những loại tàu sử dụng khí hydro làm năng lượng chuyển động.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tàu điện động lực phân tán loại Chủ thể** () là một tổ hợp đầu máy tàu điện động lực phân tán gồm 4 phần được xây dựng bởi Xí nghiệp đầu máy điện Kim
thumb|Tàu điện động lực phân tán (EMU) [[Deutsche Bahn ICE 3 có thể đạt tới vận tốc ở Rhineland-Palatinate, Đức]] **Tàu điện động lực phân tán** (Tiếng Anh: **Electric Multiple Unit** - **EMU**) là một
thumb|right|Hệ thống [[Tàu điện ngầm thành phố New York là hệ thống tàu điện ngầm vận hành độc lập lớn nhất trên thế giới tính theo số lượng nhà ga mà nó phục vụ, sử
thumb|[[Tàu điện ngầm Luân Đôn là hệ thống metro đầu tiên và lâu đời nhất trên thế giới, mở cửa từ năm 1863.]] thumb|[[Tàu điện ngầm Thành phố New York là hệ thống metro lớn
**Xí nghiệp đầu máy điện Kim Chong-t'ae** (tiếng ) ở Bình Nhưỡng là nhà sản xuất thiết bị đường sắt lớn nhất của Bắc Triều Tiên. Xí nghiệp này được thành lập vào tháng 11
**Tàu điện ngầm Dubai** hay **Dubai Metro** (tiếng Ả Rập: **مترو دبي**) là mạng lưới tàu điện ngầm ở Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Red Line và Green Line đang hoạt
thumb|right|Máy bay tiêm kích [[F-15E Strike Eagles của Không quân Mỹ]] thumb|Động cơ phản lực không khí của một chiếc máy bay chở khách đang cất cánh, có thể thấy rõ luồng khí phụt phía
**Vụ tấn công sarin tàu điện ngầm Tokyo** hay **Sự kiện sarin tàu điện ngầm** (), là một vụ khủng bố xảy ra vào ngày 20 tháng 3 năm 1995 tại Tokyo, Nhật Bản, do
**Tàu điện ngầm Quảng Châu** (tiếng Trung: 广州 地铁, Hán Việt: _Quảng Châu địa thiết_) là hệ thống tàu điện ngầm của thành phố Quảng Châu thủ phủ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Nó được
right|thumb|Sơ đồ phác thảo của một động cơ phản lực thẳng thumb|right|Sơ đồ thiết bị ĐCPL dòng thẳng sử dụng nhiên liệu lỏng.
1. Dòng không khí đi vào;
2. Vật trung
thumb|Tia dòng rối la-de do huỳnh quang gây ra. Tia dòng này bao gồm một dãy dài các kích cỡ [[chiều dài, một đặc điểm quan trọng của dòng chảy rối]] thumb|Dòng chảy rối và
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**Dòng điện Foucalt** hay còn gọi là **dòng điện xoáy** (tiếng Anh: _eddy current_) là hiện tượng dòng điện sinh ra khi ta đặt một vật dẫn điện vào trong một từ trường biến đổi
**Tram-train** (xe điện mặt đất-tàu hỏa) là dạng phương tiện đường sắt nhẹ đáp ứng cả các tiêu chuẩn của một hệ thống đường sắt nhẹ và các tiêu chuẩn đường sắt chính tuyến quốc
nhỏ|320x320px|Hoạt hình máy tính của một van dẫn động bằng trục cam **Trục cam** là cấu trúc bao gồm một trục và một cam được gắn chặt vào trục hoặc cam của bộ phận tách
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Tàu khu trục lớp Murasame** (tiếng Nhật: むらさめ型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục thế
, hay còn được gọi là **lớp 19DD**, là một lớp tàu khu trục (**DD**) được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Dự án lớp
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
**Tàu khu trục lớp Hatsuyuki** (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Tàu khu trục lớp Takatsuki** (tiếng Nhật: たかつき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục phòng không (**DDA**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Takatsuki là lớp tàu khu
**Tàu khu trục** **lớp Takanami** (tiếng Nhật: たかなみ型護衛艦, _Takanami-gata goeikan_) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Lớp tàu tuần dương _Baltimore**_ là một nhóm mười bốn tàu tuần dương hạng nặng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn sau của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tốc độ
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Tàu khu trục lớp Shirane** (tiếng Nhật: **_しらね型護衛艦_**) là lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng **(DDH)** phục vụ trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Shirane là
**Richard Phillips Feynman** (; 11 tháng 5 năm 1918 – 15 tháng 2 năm 1988) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ được biết đến với công trình về phương pháp tích phân
**Lớp tàu ngầm _Sargo**_ bao gồm mười tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm Hoa Kỳ đầu
**Tàu ngầm lớp Oyashio** (tiếng Nhật: **_おやしお_**) là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ điện-diesel do Nhật Bản tự phát triển và được đưa vào biên chế Lực lượng phòng vệ
**Tàu đổ bộ lớp Osumi** (Tiếng Nhật: **おおすみ型輸送艦)** là một lớp tàu vận tải đổ bộ thuộc Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Đây là lớp tàu thế hệ thứ 2 mang tên _Osumi
**Politechnika** — ga tàu điện ngầm M1 ở Warsaw. Nó nằm ở quận Śródmieście và nằm dọc theo ul. Waryńskiego, giữa al. Armii Ludowej và ul. Nowowiejska, phía bắc của bùng binh Jazdy Polskiej và
**_Mališan_** (số hiệu: P-901) là một tàu ngầm cỡ nhỏ lớp CB của Hải quân Cộng hòa Xã hội Ý trong Thế chiến II và của Hải quân Nam Tư () từ năm 1953 đến
**Tàu khu trục lớp Akizuki** (tiếng Nhật: あきづき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục chống ngầm được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) vào
thumb|Động cơ Stirling kiểu Alpha. Có hai hình trụ. Xi lanh giãn nở (màu đỏ) được duy trì ở nhiệt độ cao trong khi xi lanh nén (màu xanh lam) được làm mát. Lối đi
**Động cơ tua bin khí** (tiếng Anh - **Gas turbine engine**) là loại động cơ nhiệt dạng rotor, trong đó chất giãn nở sinh công là không khí. Động cơ này gồm ba bộ phận
**_U-456_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Tàu khu trục lớp Asagiri** (tiếng Nhật: **_あさぎり型護衛艦_**) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Tàu khu trục lớp Asagiri (lấy lại
**Tàu khu trục lớp Asahi** (**Nhật**: 朝日級驅逐艦), hay còn được gọi là **lớp DD25**, là một lớp tàu khu trục đa năng thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF).
**Phong trào Đông Du** là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập,
hay còn được biết dưới tên gọi dự án **22DDH** là một lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Lớp Izumo được
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**Hệ thống đường sắt Ý** là một trong những loại hình giao thông quan trọng nhất của cơ sở hạ tầng của Ý, với tổng chiều dài là trong đó chiều dài các tuyến hiện
**Xe điện mặt đất** (, hoặc ở Mỹ là _Streetcar_ hay _Trolley_), cũng được gọi là **tàu điện**, **tàu điện trên phố** là một loại phương tiện chở khách công cộng chạy bằng điện trên
thumb|Tàu lượn siêu tốc đạt đến động năng cực đại khi ở vị trí thấp nhất của đường ray. Khi nó bắt đầu đi lên, động năng bắt đầu chuyển thành thế năng trọng trường.