✨Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế

Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế

Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống kinh tế mà ở đó có sự trao đổi mua bán để có được sản phẩm mà các tổ chức không thể tự sản xuất hiệu quả được. Mối quan hệ đó dẫn đến việc thái độ của một thành phần sẽ ảnh hưởng đến các đối tác khác của thành phần đó và việc hủy hoại sự hợp tác đó sẽ ảnh hưởng rất lớn. Vấn đề này được nhắc đến bởi A. A. Cournot “...nhưng trên thực tế hệ thống kinh tế là một tổng thể trong đó tất cả các thành phần kết nối và ảnh hưởng lẫn nhau. Sự tăng trưởng về thu nhập của nhà sản xuất sản phẩm A sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu cho sản phẩm B, C,... và nguồn thu của các nhà sản xuất, và từ đó ảnh hưởng nhu cầu cho sản phẩm A”. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế được chứng minh là hệ quả của việc phân chia lao động.

David Baldwin đã định nghĩa sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế toàn cầu là chi phí cơ hội phát sinh từ phí rút lui trong trường hợp các nền kinh tế quyết định chấm dứt những mối quan hệ hợp tác về kinh tế giữa các nước với nhau. Người khác lại cho rằng nó đòi hỏi một mức độ nhạy cảm nhất định của kinh tế học hành vi của một quốc gia đối với các chính sách và sự phát triển của các quốc gia khác bên ngoài biên giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau của kinh tế thế giới phát triển sau thế chiến thế giới thứ 2, là kết quả của quá trình công nghiệp hóa (điện toán hóa, du lịch giá rẻ, viễn thông giá rẻ,...) và các chính sách liên quan, được đề ra với mục đích đưa nền kinh tế quốc gia bước vào cuộc đua kinh tế toàn cầu.

Một số học giả về quan hệ quốc tế cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế góp phần tạo nên mối quan hệ hòa bình hữu nghị giữa các nước. Một số học giả khác lại cho rằng mối quan hệ này khác biệt hơn hoặc nhấn mạnh vào việc sự phụ thuộc này có thể tạo nên những mâu thuẫn giữa các quốc gia. Ví dụ, trong nghiên cứu về “vũ khí hóa sự phụ thuộc”, Abraham Newman và Henry Farrell đã chỉ ra việc một số quốc gia sở hữu quyền tài phán đối với vấn đề kinh tế trọng yếu có thể sử dụng chúng để tạo đòn bẩy kinh tế chống lại các đối thủ khác.

Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và mâu thuẫn

Các học giả quan hệ quốc tế có sự chia rẽ về việc liệu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế góp phần tạo nên hòa bình hay gây nên tranh chấp. Các phân tích thể hiện rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế có thể dẫn đến cả chiến tranh và hòa bình, với rất nhiều yếu tố quyết định ảnh hưởng của sự phụ thuộc. Dale C. Copeland cho rằng kì vọng về việc thương mại tương lai ảnh hưởng đến sự phụ thuộc kinh tế dễ dẫn tới hòa bình hoặc mâu thuẫn; trong khi các nhà lãnh đạo không tin rằng mô hình thương mại trong tương lai sẽ thuận lợi, họ dễ vướng vào mâu thuẫn và cạnh tranh hơn khi họ tin rằng mô hình thương mại tương lai có lợi cho khu vực của họ. Theo Henry Farrell và Abraham L. Newman, các khu vực có thể “vũ khí hóa sự phụ thuộc” bằng cách tranh giành quyền kiểm soát của một số yếu tố trọng yếu trong mạng lưới toàn cầu về trao đổi thông tin và tài chính. Những người theo chủ nghĩa hiện thực như John Mearsheimer và Joseph Grieco đưa ra quan điểm rằng sự phụ thuộc làm tăng khả năng xảy ra mâu thuẫn bằng việc tạo ra sự phụ thuộc và nhạy cảm mà các nền kinh tế sẽ cố gắng làm mất đi; ví dụ, khu vực này sẽ sợ khu vực khác cắt đứt kết nối tới nguồn nguyên liệu quan trọng.

Beth Simmons và Patrick McDonald tranh luận rằng sự phụ thuộc tạo ra một nhóm các nền kinh tế tư bản tự do với những lợi ích khác nhau, làm cho sự mâu thuẫn giảm thiểu khả năng. Tuy nhiên, các nền kinh tế khác, nơi mà các tổ chức nội địa hưởng lợi từ các rào cản thương mại sẽ dễ dẫn đến mâu thuẫn về các vấn đề thương mại.

Việc Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra trong thời điểm toàn cầu hóa mới bắt đầu diễn ra và sự phụ thuộc kinh tế thường được đề cập tới là ví dụ của việc phụ thuộc kinh tế thất bại trong việc hạn chế mâu thuẫn hoặc thậm chí còn góp phần vào đó. Một số học giả khác đã phủ nhận việc Chiến tranh Thế giới thứ nhất là sự thất bại của lý thuyết tự do.

Theo phân tích năm 2005 dựa trên những nghiên cứu đã có, cho rằng mua bán trao đổi nhiều bước giảm thiểu mâu thuẫn.

Những biện pháp đo lường sự phụ thuộc kinh tế thế giới

Vì sự phụ thuộc kinh tế có thể khác nhau dựa theo thước đo và tình huống, có nhiều biện pháp được sử dụng để đo lường mức độ phụ thuộc giữa các quốc gia và trong nội bộ quốc gia. Tài liệu dưới đây là một số biện pháp đã được áp dụng trong việc đo lường tỉ lệ phụ thuộc kinh tế:

Phương pháp phân tầng hệ thống

Phương pháp này dựa trên châm ngôn rằng toàn cầu hóa làm gia tăng sự hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế khác nhau. Phương pháp phân tầng hệ thống được sử dụng để đo lường sự phụ thuộc kinh tế bằng cách phân tích các cụm tăng trưởng, mối quan hệ giữa các quốc gia và sự đồng điệu về chu trình kinh tế. Mối quan hệ hay sự tác động về kinh tế giữa các quốc gia hay khu vực thường được tính toán bằng hệ số tương quan chéo của Pearson. Ma trận tương quan này là một phương pháp thể hiện mối quan hệ tương hỗ của các quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Để tính toán các nhân tố tăng trưởng, các nhà kinh tế học cần thu thập và phân tích sự thay đổi GDP của từng quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Mối quan hệ giữa sự phụ thuộc và vòng tuần hoàn kinh tế được tính bằng ma trận tương quan khoảng cách trong giai đoạn 10 năm. Sự kết hợp của các kết quả sẽ cho ta thấy sự phụ thuộc về kinh tế của các quốc gia theo thời gian. Qua đó, các xu hướng trong dữ liệu phân tích đã chỉ ra rằng mức độ của sự phụ thuộc kinh tế toàn cầu đang tăng lên do sự toàn cầu hóa.

Phương pháp địa chính trị

Một phương pháp khác để đo đạc mức độ phụ thuộc kinh tế là thông qua địa chính trị - dựa trên niềm tin rằng sự phụ thuộc kinh tế xuất hiện do nhu cầu trao đổi hàng hóa chuyên dụng cho các ngành công nghiệp trọng điểm và quốc phòng giữa các quốc gia. Phương pháp địa chính trị dựa trên sự phụ thuộc cả theo chiều ngang và chiều dọc. Sự phụ thuộc theo chiều dọc tính toán liệu rằng sự thay đổi giá của một hàng hóa ở đất nước X sẽ ảnh hưởng đến đất nước Y như thế nào. Sự phụ thuộc theo chiều ngang sẽ tính toán các hoạt động thương mại song phương, giao dịch và các khoản đầu tư giữa hai nước. Dữ liệu thu thập được đều được sử dụng để tính toán sự phụ thuộc về kinh tế vì trong trường hợp có mối tương quan cao về sự phụ thuộc chiều dọc giữa hai nước X và Y mà không có sự phụ thuộc theo chiều ngang (trao đổi hàng hóa, dịch vụ hoặc tiền vốn), nước X và Y sẽ có rất ít/không có sự phụ thuộc về kinh tế. Sự phụ thuộc theo chiều dọc mà không có chiều ngang diễn ra vì một số nhân tố như sự thay đổi của các yếu tố kinh tế. Ví dụ, trong trường hợp thương mại và dòng chảy của các nhân tố trong thế giới Ả Rập (thường rất hạn chế); chúng ta có thể quan sát được sự chuyển động song song của các yếu tố giá cả, rất có thể chỉ là do tác động của các yếu tố thị trường thể giới (ảnh hưởng đồng thời đến tất cả các nền kinh tế).

Phương pháp cấu trúc rút lui

Như Baldwin và Crescenzi đã đề xuất, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế có thể được coi là một yếu tố của phí rút lui có thể xảy ra, có thể ảnh hưởng, thúc đẩy hoặc không thể tác động đến những mâu thuẫn chính trị. Một vấn đề lớn xảy ra là cần một phương pháp hợp lý để tính toán phí rút lui và sự phụ thuộc nhưng đồng thời vẫn giữ được sự tiếp cận theo một hệ thống với nhiều quốc gia tham gia. Crescenzi đã giải quyết vấn đề này bằng sự tương tác của giá cả linh hoạt giữa hai bên và dữ liệu về các hoạt động thương mại nhằm thể hiện cả hai mô hình thị trường và mức độ của phí rút lui có thể xảy ra. Trong khi dữ liệu về sự linh hoạt giá cả thể hiện khả năng của một khu vực khi đứng trước sự thay đổi về kinh tế gây ra bởi khu vực khác, sự tiếp xúc với dữ liệu thương mại vô cùng quan trong vì nó thể hiện mức độ của mối quan hệ phụ thuộc khi so sánh với nền kinh tế của khu vực và danh mục đầu tư toàn cầu. Qua hai yếu tố trên, Crescenzi tiếp tục mở rộng nghiên cứu của mình bằng cách lý giải mối quan hệ giữa sự phụ thuộc về kinh tế và việc nó liên quan tới các mâu thuẫn chính trị.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế** là sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống kinh tế mà ở đó có sự trao đổi mua bán để có được
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Kinh tế chính trị quốc tế** () là môn học thuộc ngành khoa học chính trị, nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc
**Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương** (tiếng Anh: _Asia-Pacific Economic Cooperation_, viết tắt là **APEC**) là diễn đàn của 21 nền kinh tế thành viên vành đai Thái Bình
nhỏ|phải|Một chương trình nghị sự về an ninh kinh tế ở Mỹ **An ninh kinh tế** (_Economic security_) hay còn gọi là **An ninh tài chính** (_Financial security_) là tình trạng có thu nhập ổn
**Kinh tế học sinh thái,** hoặc **sinh thái kinh tế,** vừa là lĩnh vực nghiên cứu khoa học xuyên ngành vừa là khoa học liên ngành giải quyết các sự phụ thuộc lẫn nhau và
**Toàn cầu hóa kinh tế** là một trong ba khía cạnh chính của toàn cầu hóa thường thấy ở các quốc gia, văn học hàn lâm, với hai khía cạnh khác là toàn cầu hóa
**Nền kinh tế nền tảng** (trong tiếng Anh gọi là **Platform Economy**) được hiểu là một phần của nền kinh tế mà tại đó các hoạt động kinh tế và xã hội được diễn ra
thumb|Bản đồ xuất khẩu của Qatar thumb|Bản đồ biểu diễn tài nguyên [[khoáng sản của Qatar.]] **Nền kinh tế Qatar** là một trong những nền kinh tế giàu nhất trên thế giới về GDP bình
**Khu kinh tế cửa khẩu** ở Việt Nam là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu quốc tế hay cửa khẩu chính của quốc gia, có dân cư sinh sống và
**Chính sách kinh tế mới** (tiếng Anh: **New Deal**) là một tổ hợp các đạo luật, chính sách và giải pháp nhằm đưa Hoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc đại suy thoái kinh tế 1929-1933.
thumb|_Inquiry into the nature and causes of the wealth of nations_, 1922 **_Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia_** (tiếng Anh: _An Inquiry into the Nature and Causes
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Chế định hợp đồng trong Luật dân sự Việt Nam** là tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự quy định về **hợp đồng**. Đây là một chế định quan trọng, trung tâm trong
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
Canada là quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao. Năm 2020, Canada là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 9 thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 15
**Kinh tế** (Tiếng Anh: _economy_) là một lĩnh vực sản xuất, phân phối và thương mại, cũng như tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế học, **hiệu ứng lấn át** trong kinh tế là hiện tượng xảy ra khi sự tham gia của chính phủ trong một lĩnh vực nào
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
Hiện tượng **bong bóng kinh tế** (tiếng Anh: Economic bubble) là hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá hàng hóa hoặc tài sản giao dịch tăng đột biến đến một mức giá
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
**Kinh tế Úc** là một nền kinh tế thị trường thịnh vượng, phát triển theo mô hình kinh tế phương Tây, chi phối bởi ngành dịch vụ (chiếm 68% GDP), sau đó là nông nghiệp
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
**Hội đồng Tương trợ Kinh tế** (tiếng Nga: Совет экономической взаимопомощи _Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči_, **SEV** (СЭВ, SEW); tiếng Anh: Council of Mutual Economic Assistance, **COMECON** hoặc CMEA), còn gọi là tổ chức hợp tác kinh
**Kinh tế Mexico** là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ 15 trên thế giới. Kể từ cuộc khủng hoảng 1994, chính phủ México đã có những cải cách đáng
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học thực nghiệm** (_experimental economics_) là việc áp dụng các phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu các câu hỏi kinh tế. Dữ liệu thu thập được trong các thí nghiệm được sử
**Nền kinh tế Bồ Đào Nha** là nền kinh tế lớn thứ 34 theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới trong năm 2019. Phần lớn hoạt động thương
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
nhỏ|phải|Một bản Kế hoạch kinh tế-xã hội (2007-2011) của Chính quyền Thái Lan **Kế hoạch kinh tế** (_Economic planning_) hay còn gọi là việc **lập kế hoạch kinh tế**, ở góc độ quản lý nhà
**Kinh tế thế giới** là toàn bộ quá trình hoạt động của các nền kinh tế trong khối kinh tế chung toàn cầu, đó là nền kinh tế của hơn 190 nước (194 nước chính
**Chỉ số kinh tế** là thống kê về một hoạt động kinh tế. Các chỉ số kinh tế cho phép phân tích hoạt động kinh tế và dự đoán kết quả hoạt động trong tương
**Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y** là một khu kinh tế cửa khẩu (Việt Nam), gắn với _cửa khẩu quốc tế Bờ Y_ ở xã Pờ Y huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon
**Chính sách kinh tế mới (NEP)** () là một chính sách kinh tế của Liên Xô được đề xuất bởi Vladimir Lenin năm 1921 như một biện pháp tạm thời. Lenin đã miêu tả NEP