Sởi Đức (tiếng Anh: German measles hay rubella) là một bệnh truyền nhiễm rất dễ lây do virus rubella gây ra, và sau khi mắc bệnh sẽ để lại một miễn dịch suốt đời. Virus Rubella chỉ gây bệnh cho người và thường là ở trẻ em. Điển hình của bệnh là xuất hiện các nốt ban đỏ (phát ban) ngoài da, có thể kèm theo sốt và sưng hạch bạch huyết. Thai phụ nhiễm virus Rubella trong thời gian mang thai có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như sẩy thai, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh. Hiện nay đã có Vắc-xin phòng ngừa bệnh sởi Đức.
Tên rubella đôi khi bị nhầm lẫn với từ rubeola là một từ khác có nghĩa là bệnh sởi được dùng ở các nước nói tiếng Anh, tuy nhiên 2 bệnh này không liên quan gì với nhau. Ở một số nước Châu Âu khác như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, rubella và rubeola là từ đồng nghĩa, nhưng rubeola không phải là tên gọi khác của bệnh sởi.
Rubella còn được gọi là bệnh sởi Đức vì căn bệnh này lần đầu tiên được mô tả bởi các bác sĩ người Đức ở giữa thế kỷ thứ mười tám.
Dấu hiệu và triệu chứng
nhỏ|Phát ban trên bụng gây ra bởi sởi Đức
Sau một thời gian ủ bệnh trong vòng 14-21 ngày, sởi Đức sẽ gây ra các triệu chứng tương tự như bệnh cúm. Các triệu chứng ban đầu là phát ban trên mặt, sau đó lan đến mình, tay, chân và thường giảm đi sau ba ngày (đó là lý do tại sao nó thường được gọi là bệnh sởi ba ngày). Các dấu ban thường lặn đi khi bệnh lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Các triệu chứng khác bao gồm sốt nhẹ, sưng hạch (ở vùng chẩm và háng), đau khớp, nhức đầu và viêm kết mạc. Sưng hạch bạch huyết và các tuyến có thể kéo dài tới một tuần và sốt hiếm khi tăng lên trên 38oC (100,4oF). Ban của sởi Đức thường có màu hồng hoặc hơi đỏ, gây ngứa và thường kéo dài khoảng ba ngày sau đó biến mất để lại những nốt thâm nhỏ trên da.
Sởi Đức có thể gây bệnh cho bất cứ độ tuổi nào và thường là bệnh nhẹ, hiếm gặp ở trẻ sơ sinh hoặc những người trên 40 tuổi, những người lớn tuổi nếu mắc bệnh thì có những triệu chứng nghiêm trọng hơn.
Hội chứng rubella bẩm sinh
nhỏ|Đục thủy tinh thể bẩm sinh do rubella gây ra
Sởi Đức có thể gây ra hội chứng rubella bẩm sinh ở trẻ sơ sinh. Các hội chứng sau khi bị nhiễm trùng trong tử cung do virus Rubella bao gồm dị tật tim, não, mắt và thính giác. Bệnh cũng có thể gây ra sinh non, nhẹ cân, thiếu máu, viêm gan, và giảm tiểu cầu ở trẻ sơ sinh. Nguy cơ dị tật bẩm sinh các cơ quan chính hoặc bị nhiễm trùng cao nhất trong 3 tháng đầu thai nghén. Đây chính là lý do thuốc chủng ngừa rubella được sử dụng rộng rãi. Nhiều trường hợp bà mẹ bị nhiễm rubella trong ba tháng đầu mang thai sẽ bị sẩy thai hoặc đứa trẻ vẫn được ra đời với các chứng rối loạn tim nặng, mù, điếc, hoặc các rối loạn nội tạng khác đe dọa đến sự sống.
Nguyên nhân
nhỏ|Virus rubella
Bệnh này gây ra do virus Rubella, thuộc họ togavirus, có một bộ gen RNA sợi đơn. Virus lây truyền qua đường hô hấp và cư trú tại vòm họng và các hạch bạch huyết. Virus được tìm thấy trong máu bệnh nhân từ 5 đến 7 ngày sau khi nhiễm và lây lan khắp cơ thể. Virus rubella có khả năng gây quái thai, nó có thể vượt qua nhau thai, lây nhiễm cho thai nhi, làm ngừng sự phát triển của tế bào hoặc phá hủy chúng.
Chẩn đoán
Virus rubella được đặc trưng bởi sự có mặt của kháng thể IgM ở những người nhiễm bệnh, tuy nhiên kháng thể này có thể vẫn tồn tại kéo dài hơn 1 năm cho nên nếu xét nghiệm dương tính thì cần phải kết luận một cách thận trọng. Sự xuất hiện của kháng thể này kèm theo phát ban đặc trưng thì có thể chẩn đoán khẳng định.
Phòng ngừa
Sởi Đức bị ngăn chặn bởi chương trình miễn dịch chủ động sử dụng vắc-xin chứa loại virus còn sống nhưng bị vô hiệu hóa. Hai loại vắc-xin đã giảm độc lực của virus còn sống, dòng RA 27/3 và Cendehill, đã tỏ ra hiệu quả trong công tác phòng chống dịch bệnh cho người lớn.
Vắc-xin này hiện nay thường là một phần của vắc-xin MMR (ngừa Sởi-Quai bị-Rubella). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo liều đầu tiên được tiêm vào khoảng 12 đến 18 tháng tuổi và liều thứ hai lúc 36 tháng. Phụ nữ mang thai thường được xét nghiệm miễn dịch đối với rubella sớm. Phụ nữ bị mẫn cảm sẽ không được tiêm phòng cho đến khi em bé được sinh ra bởi vì vắc-xin có chứa virus sống.
Cần khuyến cáo những phụ nữ trong độ tuổi mang thai, hoặc dự định mang thai, trong thời gian này nên đi chích ngừa bệnh. Sản phẩm tạo miễn dịch trong thời gian rất dài và tác dụng bảo vệ vẫn còn nếu người phụ nữ chích ngừa mang thai nhiều năm sau đó.
Ngoài ra, có thể phòng bệnh bằng các biện pháp không đặc hiệu khác như mặc đủ ấm, ăn uống đảm bảo dinh dưỡng, cách ly và thực hiện các biện pháp phòng lây lan vì bệnh truyền nhiễm rất nhanh qua đường hô hấp.
Chương trình tiêm chủng đã khá thành công. Cuba đã tuyên bố loại trừ hoàn toàn căn bệnh này trong những năm 1990, và trong năm 2004, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ) đã thông báo cả hai dạng rubella bẩm sinh và mắc phải đã bị loại bỏ khỏi Hoa Kỳ.
Điều trị
Không có phác đồ điều trị cụ thể đối với rubella, tuy nhiên, việc chăm sóc bệnh nhân là một vấn đề ứng phó với các triệu chứng để giảm bớt sự khó chịu. Điều trị đối với các trẻ sơ sinh được tập trung vào việc giảm tác hại của các biến chứng. Khuyết tật tim bẩm sinh và đục thủy tinh thể có thể được chữa trị bằng phẫu thuật trực tiếp. Các biện pháp y tế nhằm làm giảm biến chứng do rebella bẩm sinh gây ra cho mắt cũng tương tự như các phương pháp được sử dụng đối với chứng thoái hóa điểm vàng do tuổi tác, bao gồm tư vấn, giám sát thường xuyên, và nếu có nhu cầu thì cung cấp các thiết bị hỗ trợ tầm nhìn.
Dịch tễ học
Sởi Đức là một bệnh xuất hiện trên toàn thế giới. Virus rubella có xu hướng phát triển mạnh vào mùa xuân ở các nước có khí hậu ôn đới. Trước khi vắc xin chủng ngừa rubella được giới thiệu vào năm 1969, thì dịch sởi Đức đã bùng phát thường mỗi 6-9 năm tại Hoa Kỳ và 3-5 năm ở châu Âu, chủ yếu ảnh hưởng đến các trẻ trong độ tuổi từ 5 đến 9.
Kể từ khi có vắc xin phòng ngừa, bệnh đã hiếm xuất hiện. Hiện nay, bệnh xảy ra tại các vùng có tỉ lệ tiêm phòng thấp, chiếm 80-90% các bệnh nhiễm trùng ở trẻ em. Tại Đức, các số liệu báo cáo năm 2003 cho thấy tỉ lệ mắc bệnh là 0.33/100000 người. Theo trung tâm phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh châu Âu thì trong năm 2005 ở 22 quốc gia đã ghi nhận gần 1.500 ca bệnh sởi Đức, trong đó tỷ lệ cao nhất là ở Litva (3.44/100000 người) và Hà Lan (2.23/100000 người). Tỷ lệ trung bình của tất cả 22 quốc gia là 0.51/100000 người.
Lịch sử
Rubella lần đầu tiên được Friedrich Hoffmann mô tả lâm sàng vào năm 1740, sau đó đã được xác nhận bởi de Bergen năm 1752 và Orlow năm 1758.
Năm 1814, George de Maton đầu tiên cho rằng nó được coi là một bệnh riêng biệt với hai bệnh sởi và bệnh tinh hồng nhiệt. Tất cả những bác sĩ lúc đó đều là người Đức, cho nên bệnh đã được đặt tên là Rötheln (tiếng Đức hiện đại: Röteln), vì thế mà có tên gọi là "bệnh sởi Đức". Henry Veale, một bác sĩ phẫu thuật của pháo binh Hoàng gia Anh, đã mô tả về một ổ dịch bệnh ở Ấn Độ. Năm 1866, ông đặt tên cho nó là "rubella" (từ tiếng Latin, có nghĩa là "màu đỏ nhỏ").
Bệnh được chính thức công nhận là một thể riêng vào năm 1881, tại Đại hội Y khoa London. Năm 1914, Alfred Hess Fabian đã đưa ra lý thuyết về tác nhân gây bệnh là do virus dựa trên những nghiên cứu của ông với khỉ. Trong năm 1938, Hiro và Tōsaka đã khẳng định về điều này.
Năm 1969 một chủng virus sống làm giảm độc đã lực được cấp phép. Trong những năm 1970, một loại vắc-xin có chứa ba loại virus giảm độc lực của bệnh sởi, quai bị và rubella (MMR) được giới thiệu.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sởi Đức** (tiếng Anh: _German measles_ hay **rubella**) là một bệnh truyền nhiễm rất dễ lây do virus rubella gây ra, và sau khi mắc bệnh sẽ để lại một miễn dịch suốt đời. Virus
**Sói xám** hay **chó sói xám**, hay đơn giản là **chó sói** (_Canis lupus_) là một loài động vật có vú thuộc Bộ Ăn thịt có nguồn gốc từ lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ.
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh những con [[chó săn vây bắt con sói.]] **Săn sói** là việc thực hành săn bắn nhưng con chó sói mà đặc biệt là những con sói xám (Canis lupus)
**Đúc** (tiếng Anh: _casting_) là công nghệ chế tạo sản phẩm bằng phương pháp rót vật liệu ở dạng chảy lỏng vào khuôn để tạo ra sản phẩm có hình dạng theo khuôn mẫu. Đa
nhỏ|phải|Một con chó lai sói nhỏ|phải|Một con chó lai sói **Chó sói lai** (w_olf-hybrid_), **chó lai sói** (_wolfdog_) hay còn gọi là **lang cẩu**, là thế hệ chó lai được phối giống giữa chó nhà
**Sói lửa** hay **chó sói lửa**, **sói đỏ** hay còn biết đến với các tên khác như Chó hoang châu Á, Chó hoang Ấn Độ (danh pháp khoa học: **_Cuon alpinus_**) là một loài thú
**_Sói Thảo Nguyên_** (tựa gốc ) là cuốn tiểu thuyết thứ mười của tác giả người Thụy Sĩ gốc Đức Hermann Hesse. Sách được xuất bản lần đầu tiên ở Đức vào năm 1927 và
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Các khu rừng sồi nguyên sinh trên dãy Carpath và các khu vực khác của châu Âu** là khu vực thiên nhiên phức tạp trải dài qua 17 quốc gia của châu Âu. Trong đó,
nhỏ|phải|Một tô mì sợi **Mì sợi** () là một thực phẩm thường dùng trong nhiều nền văn hóa làm từ bột không men. Tất cả được kéo căng, ép đùn, rồi cán phẳng và cắt
**Hình tượng con sói** là một motif phổ biến trong thần thoại của các dân tộc trên toàn lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ tương ứng với mức độ lịch sử phân bố của môi
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Chó chăn cừu Đức** (còn gọi là chó **Alsace**), () là một giống chó kích cỡ lớn, xuất xứ từ Đức. Tại Việt Nam, giống chó này được gọi là **chó Berger (béc-giê **hay** bẹc-giê)**,
**Đức Mẹ Guadalupe** () còn được biết với tên gọi **Đức Trinh Nữ Guadalupe** () là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Hai tài liệu, được xuất
**_U-109_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-230_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-105_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**Sói đài nguyên** hay **sói Turukhan** (_Canis lupus albus_) là một phân loài của sói xám. Loài sói này sinh sống ở đài nguyên Á-Âu và vùng lãnh nguyên rừng từ Phần Lan đến Bán
**Sởi** (tiếng Anh: _measles_) là bệnh có tầm quan trọng đặc biệt trong nhi khoa. Trước đây bệnh xảy ra rất thường xuyên và có tỷ lệ lây nhiễm cũng như tử vong rất cao
nhỏ|Bức tranh mô tả cảnh một người sói **Người sói** hay **Ma sói**, **Hồn sói** còn được biết đến với tên là **lycanthrope** (tiếng Hy Lạp: λυκάνθρωπος; với λύκος hay lukos nghĩa là _sói_ và
**_U-48_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
Một bóng đèn sợi đốt. **Đèn sợi đốt**, còn gọi là **đèn dây tóc** là một loại bóng đèn dùng để chiếu sáng khi bị đốt nóng, dây tóc là bộ phận chính để phát
**_U-557_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-353_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**Sợi bông** là một loại sợi xơ mềm, mịn, mọc trong quả bông, hoặc vỏ bọc, xung quanh hạt của cây bông thuộc giống _Gossypium_ trong họ cẩm quỳ Malvaceae. Sợi bông gần như là
nhỏ|221x221px|Hệ sinh dục nam **Hệ thống sinh dục nam** gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật.
_Đức Mẹ núi Camêlô_ vẽ bởi [[Pietro Novelli, 1641.]] **Đức Mẹ núi Camêlô** còn được biết đến với tên gọi **Đức Mẹ núi Cát Minh** là một danh hiệu dành cho Maria trong vai trò
**_U-125_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-96_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-135_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-260_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-69_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-556_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-99_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-338_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-301_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-568_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-262_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-263_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-505_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-30_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-29_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-40_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ kịp
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-47_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-91_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-404_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực