✨U-48 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-48 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-48 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực hiện được tổng cộng mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm được năm mươi tàu buôn với tổng tải trọng cùng một tàu chiến tải trọng 1.060 tấn, đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác, trở thành tàu U-boat có thành tích nổi bật nhất trong Thế Chiến II. U-48 được rút về vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic từ tháng 6, 1941, rồi xuất biên chế vào tháng 10, 1943. Vào lúc kết thúc cuộc xung đột, U-48 bị đánh đắm trong vịnh Lübeck vào ngày 3 tháng 5, 1945, nhằm tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-48 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1936,

U-48 bắt đầu hoạt động tại Khu vực Tiếp cận phía Tây hai ngày sau khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, nơi nó tấn công mục tiêu đầu tiên là chiếc SS Royal Sceptre bằng hải pháo vào ngày 5 tháng 9. Thủy thủ đoàn Royal Sceptre đã bỏ tàu ngoại trừ sĩ quan thông tin tiếp tục ở lại để gửi tín hiệu vô tuyến cầu cứu. Viên sĩ quan này thoạt tiên bị bắt làm tù binh chiến tranh, nhưng được Đại úy Hải quân Herbert Schultze, hạm trưởng U-48 phóng thích ngay sau đó. Ngay sau đó U-48 ngăn chặn chiếc SS Browning; thủy thủ đã bỏ tàu nhưng Schultze yêu cầu họ quay trở lại tàu và cứu vớt những người sống sót của Royal Sceptre. Vì chiếc Browning đang trong hành trình hướng sang Brazil, nên thoạt tiên người ta cho rằng thủy thủ cùng 60 hành khách của Royal Sceptre đã không sống sót.

Sau đó U-48 còn ngăn chặn, khám xét rồi phóng thích nhiều tàu buôn trung lập khác trước khi đánh chìm chiếc Winkleigh vào ngày 8 tháng 9, toàn bộ thủy thủ đoàn được di tản sang xuồng cứu sinh. Đến ngày 11 tháng 9, chiếc tàu ngầm đánh chìm Firby, và sau đó trợ giúp y tế và thực phẩm cho những người sống sót trên bè cứu sinh, cũng như dùng vô tuyến báo tọa độ những người sống sót cho phía Anh. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 17 tháng 9, sau khi đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng .

Chuyến tuần tra thứ ba

U-48 khởi hành từ Kiel vào ngày 20 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực Bắc Hải và vịnh Biscay. Nó tấn công tàu buôn Thụy Điển trung lập MT Gustaf E. Reuter tại vị trí về phía Tây Bắc đảo Fair, Scotland vào ngày 27 tháng 11. Mục tiêu bị hư hại nặng đến mức chiếc HMS Kingston Beryl phải đánh đắm nó vào ngày hôm sau; một thủy thủ đã thiệt mạng và có 33 người khác sống sót. Đến ngày 8 tháng 12, U-48 lại đánh chìm tàu buôn Anh Brandon ngoài khơi bờ biển phía Nam Ireland. Sang ngày hôm sau, nó tấn công tàu chở dầu Anh San Alberto; mục tiêu bị hư hại nặng đến mức nó phải bị tàu khu trục đánh chìm. Cuối cùng vào ngày 15 tháng 12, U-48 ngăn chặn chiếc tàu buôn Hy Lạp trung lập Germaine, vốn được Ireland thuê để vận chuyển ngô đến Cork; Đại úy Schultze hạm trưởng U-48 cho rằng con tàu đang vận chuyển hàng hóa đến Anh, nên đã đánh chìm mục tiêu. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 20 tháng 12.

Chuyến tuần tra thứ năm

Khởi hành từ Kiel vào ngày 3 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ năm, U-48 tiến vào Bắc Hải và hoạt động tại khu vực dọc suốt bờ biển Na Uy, con tàu đã hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm xâm chiếm đất nước này. Vào ngày 13 tháng 4, nó tìm cách tấn công các tàu khu trục trong thành phần hộ tống cho thiết giáp hạm , nhưng bị đối phương phản công bằng mìn sâu, chiếc tàu ngầm đã thoát được và chỉ bị hư hại nhẹ. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 20 tháng 4.

Chuyến tuần tra thứ sáu

Chuyến tuần tra thứ sáu là một chuyến khá thành công của U-48, khi nó đánh chìm bảy tàu buôn với tổng tải trọng và gây hư hại cho một chiếc khác tải trọng từ ngày 26 tháng 5 đến ngày 29 tháng 6. Do Đại úy Schultze phải nhập viện do bệnh tật, quyền chỉ huy U-48 được chuyển giao cho Thiếu tá Hải quân Hans-Rudolf Rösing từ ngày 21 tháng 5. Trong các ngày 5 và 7 tháng 6, ở vùng biển về phía Tây và Tây Bắc Scotland, nó đánh chìm các tàu buôn Anh StancorFrances Massey cùng gây hư hại nặng cho chiếc Eros vốn đang vận chuyển 200 tấn vũ khí cá nhân từ Montreal, Canada. Tàu khu trục hộ tống , được các tàu kéo và tàu khu trục trợ giúp, đã kéo Eros đi đến bờ biển Ireland thuộc hạt Donegal, nơi con tàu được sửa chữa dưới sự canh phòng của binh lính Ireland.

Hải quân Đức được thông tin một đoàn tàu vận tải chuyển quân, bao gồm các chiếc và , đang trên đường vận chuyển 25.000 binh lính Australia đến Anh, nên U-48 được lệnh đi đến ngoài khơi mũi Finisterre, Tây Ban Nha và tham gia bầy sói Rösing's nhằm đánh chặn đoàn tàu này. Tuy nhiên hoạt động của tàu ngầm U-boat trong khu vực khiến Hải quân Anh nhận biết sự hiện diện của chúng, và đoàn tàu vận tải đã đổi hướng để né tránh bầy sói. Đến ngày 19 tháng 6, U-48 tấn công Đoàn tàu HG 34 và đánh chìm các chiếc , và . Chiếc tàu ngầm còn đánh chìm thêm chiếc Moordrecht thuộc Đoàn tàu HX 49 vào ngày hôm sau trước khi kết thúc chuyến tuần tra.

Chuyến tuần tra thứ tám - Đánh chìm SS City of Benares

Trong chuyến tuần tra thứ tám, vào ngày 18 tháng 9, U-48 gây ra sự kiện làm chấn động dư luận khi nó đánh chìm chiếc tàu biển chở hành khách , vốn đang di chuyển trong đội hình Đoàn tàu OB 213. Trong số hành khách bên trên City of Benares có 119 trẻ em, trong đó 90 em được di tản sang Canada theo sáng kiến của Ủy ban Tiếp đón Trẻ em Hải ngoại. Sau khi trúng ngư lôi, City of Benares lập tức bị nghiêng, khiến nó không thể hạ thủy các xuồng cứu sinh ngoại trừ hai chiếc. Những người sống sót không được cứu vớt cho đến 24 giờ sau đó, thậm chí một xuồng cứu sinh chỉ được tìm thấy sau đó tám ngày; chỉ có 148 người, bao gồm 19 trẻ em, 21 phụ nữ và 108 đàn ông sống sót trong tổng số 408 người có mặt trên tàu. Có tổng cộng 260 người, bao gồm 100 trẻ em, 35 phụ nữ và 125 đàn ông, thiệt mạng trong vụ đắm tàu, khiến chương trình di tản trẻ em ra nước ngoài phải chấm dứt.

Thảm họa City of Benares bị đánh chìm là một vấn đề gây ra nhiều tranh luận. Một số cho rằng nếu Hải quân Anh công bố con tàu đang chở người tị nạn, phía Đức sẽ tránh không tấn công vì sẽ đối diện với sự phản đối từ các nước trung lập, vốn đã xảy ra và không thuận lợi cho hoạt động tuyên truyền. Tuy nhiên, chiếc tàu chở hành khách không chỉ di chuyển tắt đèn vào ban đêm trong đội hình một đoàn tàu vận tải Đồng Minh, mà nó còn là soái hạm của Chuẩn đô đốc Edmund Mackinnon, chỉ huy đoàn tàu vận tải. Các sử gia khác tranh luận rằng phía Đức có quyền tấn công mọi tàu chở khách lớn, bất kể nó đang chở hàng hóa hay hành khách gì. Dù sao City of Benares cũng được sơn bên ngoài như một tàu chở quân, nên chiếc U-boat tin rằng mục tiêu chỉ vận chuyển binh lính và thủy thủ, nên đã đánh chìm nó.

Dù sao đây cũng là một chuyến tuần tra rất thành công của U-48, khi nó đánh chìm bảy tàu buôn với tổng tải trọng và gây hư hại cho một chiếc tải trọng , trong chuyến tuần tra từ ngày 8 đến ngày 25 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ chín

Kéo dài từ ngày 5 đến ngày 27 tháng 10,

1941

Chuyến tuần tra thứ mười

Sau thời gian điều trị bệnh, Đại úy Schultze quay trở lại chỉ huy U-48 từ ngày 17 tháng 12, 1940, trong khi chiếc tàu ngầm được tái trang bị tại Kiel. Nó xuất phát từ Kiel vào ngày 20 tháng 1, 1941 cho chuyến tuần tra thứ mười để hoạt động tại vùng biển phía Tây Bắc Scotland. U-48 đã đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng trước khi đi đến căn cứ St. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 27 tháng 2.

Chuyến tuần tra thứ mười một và mười hai

Trong các chuyến tuần tra sau cùng của U-48: chuyến thứ mười một từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 8 tháng 4 và chuyến thứ mười hai từ ngày 22 tháng 5 đến ngày 17 tháng 6, chiếc tàu ngầm còn đánh chìm thêm tám tàu ngầm với tổng tải trọng và gây hư hại cho một chiếc khác . Dù sao, U-48 rõ ràng đã trở nên lạc hậu với sự tiến bộ kỹ thuật từ cả hai phía, cho dù đã được nâng cấp vào mùa Đông trước đó. Tầm xa hoạt động và số ngư lôi mang theo bị hạn chế so với chiến trường ngày càng mở rộng, và sẽ là nguy cơ cho thủy thủ đoàn lẫn các tàu U-boat khác nếu nó ở lại lâu hơn trên chiến trường chính tại Bắc Đại Tây Dương.

1942 - 1945

Quay trở về Kiel vào ngày 22 tháng 6, 1941 sau chuyến tuần tra cuối cùng, U-48 được điều sang vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic. Không giống nhiều tàu U-boat khác trong khu vực, nó không được huy động vào hoạt động tuần tra chiến tranh trong khu vực biển Baltic, trong bối cảnh cuộc xung đột với Liên Xô đã bắt đầu. Đến năm 1943, nó được xem là không còn phù hợp để phục vụ, ngay cả trong những nhiệm vụ gới hạn, nên được cho xuất biên chế vào ngày 25 tháng 9, và bị bỏ không tại Neustadt. Vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến II, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-46 bị đánh đắm tại vịnh Lübeck, tại tọa độ , vào ngày 3 tháng 5, 1945, để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.

"Bầy sói" tham gia

U-48 từng tham gia hai bầy sói

  • Rösing (12 – 15 tháng 6, 1940)
  • West (19 tháng 5 – 6 tháng 6, 1941)

Tóm tắt chiến công

U-48 đã đánh chìm được năm mươi tàu buôn với tổng tải trọng cùng một tàu chiến tải trọng 1.060 tấn, đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-48_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-48_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1915, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh đắm năm
**_U-40_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ kịp
**_U-553_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-568_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-26_** là một trong số hai tàu ngầm đi biển Type IA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đóng bởi xưởng tàu DeSchiMAG AG Weser
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-260_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-106_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-77_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-134_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-407_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành hầu
**_U-556_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-89_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-378_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-372_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-259_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**Tàu ngầm Type IXB** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào trong giai đoạn 1938-1940. Chúng được thiết kế như những tàu ngầm đại dương hoạt
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**USS _Wickes_ (DD-75)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; sau đó được chuyển cho
**USS _Twiggs_ (DD–127)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh trong
**USS _Mason_ (DD-191)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được chuyển cho
**HMS _Courageous**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được chế tạo tại xưởng đóng tàu Armstrong Whitworth như một "tàu tuần dương hạng nhẹ cỡ lớn". Từng tham gia
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Franklin Delano Roosevelt, Sr.** (, ; 30 tháng 1 năm 188212 tháng 4 năm 1945), thường được gọi tắt là **FDR**, là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 32
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**USS _Tillman_ (DD–135)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó được chuyển cho Hải quân Hoàng Gia
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
**HMS _Glorious**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Ban đầu nó được chế tạo tại xưởng đóng tàu Harland and Wolff như một "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn". _Glorious_
**USS _George E. Badger_ (DD-196/CG-16/AVP-16/AVD-3/APD-33)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất; từng phục vụ cho Lực lượng Tuần duyên
Chiếc **Grumman TBF Avenger** (Người Báo Thù) (còn mang ký hiệu là **TBM** cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
Ngày **18 tháng 9** là ngày thứ 261 (262 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 104 ngày trong năm. ## Sự kiện * 96 – Sau khi Hoàng đế Domitianus bị ám sát, Thượng
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía