✨Quốc kỳ Đan Mạch

Quốc kỳ Đan Mạch

Quốc kỳ Đan Mạch (; ) là một lá cờ màu đỏ, có hình thập tự màu trắng kéo dài tới các cạnh. Thiết kế hình thánh giá trên cờ thể hiện cho Kitô giáo, sau đó đã được các nước Bắc Âu áp dụng trên quốc kỳ của họ; quốc kỳ Thụy Điển, quốc kỳ Na Uy, quốc kỳ Phần Lan, quốc kỳ Iceland, cờ quần đảo Åland, cờ quần đảo Faroe cũng như cờ của các quần đảo Shetland và quần đảo Orkney thuộc Scotland. Trong thời kỳ liên minh cá nhân giữa Đan Mạch và Na Uy, quốc kỳ Đan Mạch cũng là quốc kỳ của Na Uy và tiếp tục như vậy, với một chút sửa đổi, cho tới năm 1821 khi Na Uy đưa ra Quốc kỳ Na Uy hiện nay.

Do nguồn gốc huyền thoại của lá cờ này bắt nguồn từ thế kỷ thứ XIII, quốc kỳ Đan Mạch được xem là quốc kỳ lâu đời nhất được liên tục sử dụng cho đến nay. Sách kỷ lục Guinness (năm 2010) đã ghi nhận Dannebrog là "quốc kỳ lâu đời nhất thế giới" hiện vẫn còn được sử dụng, khi tính từ lần đầu tiên được chính thức sử dụng năm 1625. Theo huyền thoại thì Đan Mạch có được lá cờ này trong Trận Lyndanisse năm 1219. Các người Đan Mạch gặp khó khăn trong cuộc Thập tự chinh ở Estonia, nhưng sau khi cầu xin Chúa thì có một lá cờ từ trời rơi xuống. Sau khi nhận được lá cờ, vua Valdemar II của Đan Mạch đã đánh bại các người Estonia. Các việc sử dụng lá cờ này được ghi chép lần đầu vài thế kỷ sau đó.

Nguồn gốc huyền thoại

Huyền thoại cho biết nguồn gốc lá cờ này xuất xứ từ Trận Lyndanisse, cũng gọi là Trận chiến của Valdemar (tiếng Đan Mạch: "Volmerslaget"), gần Lyndanisse (Tallinn) ở Estonia,ngày 15.6.1219.

Cuộc chiến đã diễn ra tồi tệ với người Đan Mạch, và thất bại dường như sắp xảy ra. Tuy nhiên, một linh mục Đan Mạch trên một ngọn đồi nhìn ra trận chiến đã cầu xin Thiên Chúa, và càng cầu nguyện thì người Đan Mạch càng tiến gần tới chiến thắng. Trong một phút giây mệt mỏi ông không nâng được các cánh tay lên cao để cầu nguyện, thì người Đan Mạch bị thất thế và sắp bị thua trận. Vị linh mục cần 2 người lính nâng giùm 2 cánh tay ông lên để cầu nguyện, và người Đan Mạch lại tiến công, rồi khi gần chiến thắng thì (lá cờ) 'Dannebrog' từ trên trời rơi xuống. Nhà vua cầm lấy lá cờ giơ cao cho toán quân, lòng họ liền hăng say dũng cảm chiến đấu và cuối cùng người Đan Mạch đã thắng trận.

Theo huyền thoại thì lá cờ Dannebrog do chính Chúa ban cho người Đan Mạch, và từ ngày đó trở đi nó trở thành lá cờ của các nhà vua và nước Đan Mạch.

phải|Dannebrog từ trời rơi xuống trong [[Trận Lyndanisse, 15.6.1219. Họa sĩ Christian August Lorentzen vẽ năm 1809. Bức tranh treo trong Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia, Đan Mạch]]

Không có ghi chép lịch sử nào minh chứng cho huyền thoại trên. Sau khi trận chiến nói trên xảy ra hơn 300 năm thì huyền thoại này mới được ghi chép lần đầu, và ghi chép liên kết huyền thoại này với một trận chiến nhỏ hơn nhiều, tuy cũng xảy ra tại Estonia trước đó: Trận Fellin (Viljandi) năm 1208. Tuy không có tư liệu lịch sử nào về chuyện lá cờ ở trận Fellin, nhưng cũng dễ hiểu là vì sao một trận chiến bé nhỏ ở một nơi vô danh đã được thay thế bằng trận chiến Reval (Tallinn) lớn hơn trong chiến dịch của vua Valdemar II ở Estonia.

Chuyện này xuất xứ từ 2 nguồn tài liệu được viết từ đầu thế kỷ thứ XVI.

Nguồn thứ nhất là quyển "Danske Krønike" (Lịch sử biên niên Đan Mạch) của Christiern Pedersen, một quyển tiếp theo quyển Gesta Danorum của Saxo Grammaticus, viết năm 1520 – 1523. Nguồn này không nêu sự liên quan của lá cờ với chiến dịch của vua Valdemar II ở Estonia, nhưng liên quan tới một chiến dịch ở Nga. Ông ta cũng cho rằng lá cờ rơi từ trời xuống trong chiến dịch của vua Valdemar II ở Nga, thì cũng là lá cờ mà vua Eric của Pomerania đem theo mình khi rời khỏi nước vì bị truất phế năm 1440.

Nguồn thứ hai là bài viết của tu sĩ dòng Phanxicô Petrus Olai (Peder Olsen) ở Roskilde năm 1527. Ghi chép này mô tả một trận chiến vào năm 1208 gần một nơi gọi là "Felin" trong chiến dịch của vua Valdemar II ở Estonia. Người Đan Mạch sắp bị đánh bại thì một lá cờ bằng da cừu mô tả một thập giá màu trắng từ trời rơi xuống và đã dẫn người Đan Mạch tới chiến thắng một cách kỳ lạ. Trong một ghi chép khác của Petrus Olai có tên "Danmarks Tolv Herligheder" (12 sự huy hoàng của Đan Mạch), thì sự huy hoàng thứ 9 là chuyện được thuật lại (về lá cờ) hầu như nguyên văn; tuy nhiên có một chương đưa vào được sửa thành năm 1219.

Hiện nay vẫn chưa xác định được: Liệu các ghi chép trên có thực sự mô tả một chuyện truyền khẩu lâu đời tồn tại vào thời điểm đó, hay chỉ là một chuyện bịa ra trong thế kỷ thứ XVI mà thôi.

Người ta tin rằng tên thủ đô Tallinn của Estonia có từ sau trận chiến nói trên. Tallinn phái sinh từ chữ "Taani linn", có nghĩa là "thành phố Đan Mạch" ở Estonia.

Tiếp tục huyền thoại lãng mạn

Chuyện về lá cờ nguyên thủy có một đoạn tiếp theo:

Theo truyền thuyết, lá cờ nguyên thủy từ Trận Lyndanisse đã được sử dụng trong một chiến dịch nhỏ vào năm 1500 khi vua Hans tìm cách chinh phục vùng Dithmarschen (phía tây Holstein ở bắc Đức). Lá cờ đã bị mất trong cuộc bại trận tán loạn ở Trận Hemmingstedt ngày 17.2.1500. Năm 1559, vua Frederik II đã đoạt lại lá cờ trong chiến dịch Dithmarschen của mình. Trong điều kiện đầu hàng (của vùng Dithmarschen) có nói rõ là mọi lá cờ Đan Mạch bị mất trong trận chiến năm 1500 phải được trả lại Đan Mạch.

Truyền thuyết này có 2 nguồn: Lịch sử vua Hans của Hans Svaning từ 1668-1559 và Lịch sử về cuộc chiến tranh Dithmarschen sau cùng của Johan Rantzau năm 1569. Cả hai nguồn đều cho rằng cờ này là cờ nguyên thủy, và do đó cả hai tác giả đều biết huyền thoại về lá cờ từ trời rơi xuống. Năm 1576, Henrik Rantzau, con của Johan Rantzau, cũng viết về cuộc chiến tranh này và số phận của lá cờ. Ông ta ghi chú rằng khi được trả lại thì lá cờ ở trong tình trạng tồi tệ.

Các nguồn từ Dithmarschen, được viết ngay sau trận chiến năm 1500, cũng đề cập tới các lá cờ - trong đó có cờ hoàng gia - chiếm được của người Đan Mạch, nhưng không đề cập tới cờ Dannebrog hoặc lá cờ "nguyên thủy". Có vẻ hoàn toàn hợp lý khi cho rằng lá cờ riêng của nhà vua cũng như lá cờ dẫn đầu đoàn quân đều bị mất, vì chính nhà vua đã chỉ huy trận này (và bị thua). Tuy nhiên, liệu nhà vua có đem theo lá cờ "nguyên thủy" trong trận này hay không thì chưa biết rõ.

Trong lá thư gửi Oluf Stigsøn đề ngày 22.2.1500, vua Hans mô tả trận đánh, nhưng không nói gì tới việc mất một lá cờ quan trọng. Nói tóm lại, toàn bộ lá thư cho ta một ấn tượng là việc thất trận chỉ là một "việc rủi ro đáng tiếc".

Một dấu chỉ cho thấy chúng ta phải đề cập tới nhiều lá cờ, là các bài viết năm 1570 của Niels Hemmingsøn về một trận chiến đẫm máu năm 1520 giữa người Đan Mạch và người Thụy Điển gần thành phố Uppsala của Thụy Điển. Ông ta viết rằng "lá cờ dẫn đầu toán quân Đan Mạch" ("Danmarckis Hoffuitbanner") đã sắp bị quân Thụy Điển cướp được, may nhờ các nỗ lực phối hợp của người cầm cờ Mogens Gyldenstierne, đã bị nhiều vết thương, cùng với một chàng trai đến cứu anh ta, mới giữ được lá cờ. Chàng trai trẻ này là Peder Skram.

Tuy nhiên câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Một linh mục kiêm sử gia từ vùng Dithmarschen là Neocorus, đã viết trong năm 1598 rằng lá cờ Đan Mạch bị cướp trong trận chiến năm 1500, đã được đem về treo trong nhà thờ ở Wöhrden trong 59 năm, cho tới khi nó được trả lại cho người Đan Mạch như một phần của hòa ước năm 1559. Trong bài viết năm 1576, Henrik Rantzau nói rằng lá cờ được mang tới thành phố Schleswig và được đặt trong Nhà thờ chính tòa, sau khi cờ được trả lại cho người Đan Mạch.

Một sử gia ở Slesvig, Ulrik Petersen (1656–1735), viết vào cuối thế kỷ thứ XVII rằng lá cờ đó được treo ở nhà thờ chính tòa Slesvig cho tới khoảng năm 1660 nó bị mục nát, do đó chấm dứt câu chuyện kéo dài trên 400 năm của nó.

Dĩ nhiên, về mặt lịch sử, không thể chứng minh hoặc bác bỏ là những ghi chép trên đều đề cập tới cùng một lá cờ, hoặc lá cờ năm 1208 hay lá cờ năm 1219 có thực sự tồn tại hay không. Dường như nhiều huyền thoại trên đều dựa trên các huyền thoại ban đầu.

Sử dụng lịch sử

phải|Cờ Đan Mạch trên trang đầu quyển [[Gesta Danorum của Saxo Grammaticus, theo phiên bản của Christiern Pedersen, 1514. Toàn trang đầu có thể xem ở đây.]]

Caspar Paludan-Müller

Sử gia Đan Mạch Caspar Paludan-Müller trong quyển "Sagnet om den himmelfaldne Danebrogsfane" (Huyền thoại về lá cờ Danebrog từ trời rơi xuống) (1873) đưa ra thuyết cho rằng đó là lá cờ do vị Giáo hoàng gửi tới vua Đan Mạch để dùng trong các cuộc Thập tự chinh ở Các nước Baltic. Các vua và các lãnh chúa khác chắc cũng nhận được những lá cờ như vậy.

Tuy nhiên, người ta có thể hình dung rằng nếu câu chuyện trên có thực, thì chắc chắn phải có vài ghi chép về sự việc này và có lẽ các sử gia Đan Mạch không thể bỏ sót mà không nêu ra theo cách nào đó. Được nhận một lá cờ từ Giáo hoàng là một vinh dự lớn, tuy nhiên mặc dù có rất nhiều thư của giáo hoàng liên quan tới các cuộc Thập tự chinh, nhưng không có thư nào đề cập tới việc trao cờ cho vua Đan Mạch. Hoặc cũng có thể là lá thư liên quan tới việc trao cờ đã bị thất lạc.

Johan Støckel

Một thuyết tương tự do thuyền trưởng kiêm nhà thám hiểm, nhà phiêu lưu người Đan Mạch Johan Støckel nêu ra hồi đầu thế kỷ XX. Ông cho rằng đó không phải là cờ của giáo hoàng trao cho nhà vua, nhưng trao cho vị khâm sứ Tòa thánh ở Bắc Âu, có thể là tổng Giám mục Andreas Sunesøn, rồi ông này – ngoài sự hay biết của nhà vua – đã mang theo lá cờ tham gia cuộc Thập tự chinh của nhà vua ở các nước vùng Baltic, trong một nỗ lực làm cho quân đội nhận một biểu tượng Kitô giáo (thay vì biểu tượng của nhà vua) và do đó tăng cường sức mạnh của giáo hội.

Không chắc là vị tổng Giám mục rất ngay thẳng và trung thành này đã làm một việc như vậy sau lưng nhà vua. Ngoài ra khó lòng có chuyện giáo hoàng gửi một lá cờ như vậy vì họ đã có sẵn một lá cờ, đó là cờ của dòng Hiệp sĩ Cứu tế (tiếng Đan Mạch: "Johanitterne").

Adolf Ditlev Jørgensen

Năm 1875, sử gia Đan Mạch Adolf Ditlev Jørgensen trong quyển "Danebroges Oprindelse" (nguồn gốc quốc kỳ Đan Mạch) đưa ra một thuyết cho rằng cờ của Đan Mạch là lá cờ của Hiệp sĩ Cứu tế. Ông cho biết dòng Hiệp sĩ Cứu tế đến Đan Mạch vào hậu bán thế kỷ thứ XII, rồi trong những thế kỷ sau dòng này đã lan rộng tới các thành phố lớn như Odense, Viborg, Horsens, Ribe và trụ sở chính đặt ở Slagelse, nên vào thời Thập tự chinh ở các nước vùng Baltic, thì lá cờ biểu tượng của Hiệp sĩ Cứu tế đã là một biểu tượng nổi tiếng ở Đan Mạch. Hơn nữa ông ta cho rằng Theoderich, Giám mục vùng Livonia, từng là người đồng sáng lập dòng "Anh em mang kiếm vùng Livonia", đã có ý định bắt đầu lập một dòng tương tự ở Estonia; và ông ta là người chủ trương lôi kéo từ Giám mục Albert của Buxhoeveden tới vua Valdemar II trong năm 1218, để Đan Mạch tham gia hoàn toàn vào cuộc Thập tự chinh ở các nước vùng Baltic.

Trong bài viết của giáo sĩ Henry của Livonia từ Riga có nói rằng Giám mục Theoderich bị giết trong trận đánh năm 1219, khi quân thù tấn công lều của ông vì họ cho rằng đó là lều của nhà vua. Adolf Ditlev Jørgensen giải thích rằng vì Giám mục Theoderich là người đã giữ lá cờ và cắm cờ đó bên ngoài lều của mình, bởi đó là biểu tượng quen thuộc của dòng "Hiệp sĩ Cứu tế" ở Livonia, và quân thù cho rằng đó là biểu tượng của nhà vua, do đó đã tấn công lầm vào lều của Giám mục Theoderich. Ditlev Jørgensen cho rằng nguồn gốc của huyền thoại về lá cờ từ trời rơi xuống xuất xứ từ sự lầm lộn trong trận chiến này.

L. P. Fabricius

Sử gia giáo hội Đan Mạch L. P. Fabricius đưa ra một thuyết khác để giải thích, trong nghiên cứu năm 1934 có nhan đề "Sagnet om Dannebrog og de ældste Forbindelser med Estland" (Huyền thoại về cờ Danebrog và những quan hệ với Estonia lâu đời nhất). Ông quy huyền thoại này có nguồn gốc từ Trận Fellin năm 1208, chứ không phải Trận Lyndanisse năm 1219, dựa trên nguồn lâu đời nhất về chuyện này.

Trong thuyết này, ông cho rằng đó chắc phải là lá cờ giáo sĩ của cá nhân tổng Giám mục Andreas Sunesøn hoặc có thể là cờ của tổng Giám mục Absalon, căn cứ vào những nỗ lực không mệt mỏi của ông nhằm mở rộng Kitô giáo sang các nước vùng Baltic. Do sáng kiến của ông và sự giám sát nhiều cuộc Thập tự chinh nhỏ hơn vốn đã diễn ra ở Estonia, lá cờ này đã quen thuộc ở Estonia. Fabricius nhắc lại chuyện lá cờ cắm trước lều của Giám mục Theodorik, khiến quân thù tưởng lầm là lều của nhà vua nên tấn công vào.

Mọi thuyết nêu trên đều tập trung vào 2 trận đánh ở Estonia, trận Fellin (1208) hoặc trận Lyndanisse (1219), và do đó đều tìm cách giải thích nguồn gốc lá cờ trong tương quan với huyền thoại xuất hiện sau đó hơn 300 năm.

Fabricius và Helga Bruhn

Một thuyết rất khác biệt được Fabricius đưa ra và được Helga Bruhn thảo luận chi tiết hơn trong quyển "Dannebrog" năm 1949 của bà. Bà cho rằng lá cờ cũng như trận đánh chẳng phải là cốt lõi của huyền thoại, mà chính là hình thập giá ở trên trời. Những chuyện tương tự về những xuất hiện ở trên trời vào các thời điểm quyết định - nhất là sự xuất hiện của thập giá – có thể tìm thấy trên khắp châu Âu.

Bruhn đề cập tới một trận chiến (mà Fabricius cũng nói tới) xảy ra ngày 10.9.1217 giữa các hiệp sĩ Kitô giáo và các chiến binh Moor trên bán đảo Iberia gần lâu đài Alcazar, nơi được nói là một thánh giá màu vàng trên nền trắng đã xuất hiện trên trời, đem lại chiến thắng cho các Kitô hữu. Cũng thế, một chuyện rất tương tự của Thụy Điển từ thế kỷ XVIII về một thánh giá màu vàng trên nền xanh dương xuất hiện năm 1157 trong trận chiến của Thụy Điển tại Phần Lan. Dường như đó là một chuyện bịa ra sau này để phản lại nguồn gốc huyền thoại của quốc kỳ Đan Mạch, nhưng tuy thế mà cũng cùng tính chất như nhau. Quốc kỳ Anh, trên có thập tự thánh George cũng được cho là đã xuất hiện từ trời trong một trận chiến quyết định, lần này tại Jerusalem trong các cuộc Thập tự chinh.

Các sự giống nhau giữa các huyền thoại là rõ ràng. Tại Tây Ban Nha, cờ của giáo hoàng xuất hiện trên bầu trời, tại Phần Lan là cờ của Thụy Điển. Tại Estonia là cờ Đan Mạch, và ở Jerusalem là cờ Anh. Về cơ bản, các thoại trên đều là biến thể của cùng một huyền thoại.

Ghi chép lâu đời nhất về việc sử dụng cờ

trái|Triện của [[Eric của Pomerania là vua của Liên minh Kalmar, 1398. Hãy chú ý tới lá cờ Dannebrog nhỏ xíu ở góc trên cùng bên trái]] Văn học Đan Mạch ở thế kỷ XIII và XIV chưa nói gì về quốc kỳ, cho mãi tới đầu thế kỷ XV. Tuy nhiên, có tồn tại nhiều tiền kim loại, dấu triện và hình ảnh, cả ở trong nước và nước ngoài từ thế kỷ thứ XIII tới XV, và thậm chí còn sớm hơn, cho thấy các lá cờ tương tự như cờ Dannebrog. Trong thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ XX, các hình ảnh này được nhiều sử gia Đan Mạch sử dụng, với khuynh hướng về chủ nghĩa dân tộc, tìm cách đưa nguồn gốc của lá cờ xuất xứ từ năm 1219. Tuy nhiên, nếu ta nghiên cứu vài nguồn ít ỏi của nước ngoài về Đan Mạch từ thế kỷ XIII tới thế kỷ XV, thì chí ít theo quan điểm của nước ngoài, rõ ràng là biểu tượng của Đan Mạch không phải là lá cờ màu đỏ và (thập tự) trắng, nhưng là huy hiệu hình cái khiên của nhà vua (3 con sư tử màu xanh dương trên cái khiên màu vàng). Huy hiệu hình khiên này vẫn còn sử dụng tới ngày nay.

Một nơi rõ ràng để tìm tài liệu là thành phố Tallinn của Estonia, nơi xảy ra trận chiến huyền thoại. Ở Tallinn, huy hiệu hình khiên giống như lá cờ được tìm thấy trên nhiều tòa nhà từ giữa thế kỷ thứ XV, như huy hiệu hình khiên của "Die Grosse Gilde" (Hội nhà buôn sỉ), một loại consortium nhà buôn đã ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển của thành phố. Biểu tượng này sau đó trở thành huy hiệu hình khiên của thành phố. Tuy nhiên, những nỗ lực để truy lùng dấu vết từ Estonia trở lại Đan Mạch đã thất bại.

Quốc huy hình khiên của Estonia gồm ba con sư tử màu xanh dương trên nền khiên màu vàng, hầu như rất giống Quốc huy hình khiên của Đan Mạch, và nguồn gốc của nó bắt nguồn trực tiếp từ vua Valdemar II và sự cai trị của Đan Mạch trên Estonia từ 1219-1346..

Liên kết lâu đời nhất không thể tranh cãi

phải|Mặt sau trang 55 trong [[Tập huy hiệu Gelrel của Hà Lan. Có một hình màu của lá cờ nền đỏ với thập tự màu trắng thuộc vua Đan Mạch được biết đến lâu đời nhất không thể tranh cãi]] Nguồn lâu đời nhất không thể tranh cãi liên kết lá cờ nền đỏ có một thập tự màu trắng với nhà vua Đan Mạch, và với chính vương quốc, được tìm thấy ở Tập huy hiệu của Hà Lan, đó là "Tập huy hiệu Gelre" (tiếng Hà Lan: Wapenboek Gelre), được viết từ khoảng năm 1340 tới năm 1370 (vài nguồn khác cho là năm1378 hoặc 1386). Đa số các sử gia đều cho rằng tập sách này do Geldre Claes Heinen viết. Sách này trình bày khoảng 1.700 huy hiệu hình khiên tô màu của mọi nước châu Âu. Sách này hiện nằm trong Thư viện hoàng gia Bruxelles ("Bibliothèque royale Albert Ier").

Trên mặt sau trang 55 có hình Huy hiệu hình khiên của Đan Mạch trên đó có một mũ bảo vệ đầu với ermine có 2 sừng bò bison (bò xạ)(). Đằng sau chiếc sừng hung dữ là mũi nhọn của ngọn dáo với lá cờ có thập tự trắng trên nền đỏ. Câu văn bên trái của huy hiệu hình khiên này ghi "die coninc van denmarke" (vua Đan Mạch). Đây là màu sắc của lá cờ Danebrog được biết đến lâu đời nhất không thể tranh cãi.

Hình này đã được dùng để xác nhận một thuyết từng gây tranh cãi trước đây cho rằng hình thập tự trên quốc huy hình khiên của vua Valdemar Atterdag ở (dấu) triện Danælog của ông ta (Rettertingsseglet) từ năm 1356 quả đúng là thập tự trên quốc kỳ Đan Mạch.

Hình này trong Tập huy hiệu Gelre rất giống với một hình trong sách huy hiệu ở thế kỷ XV, nay lưu trữ trong "Viện văn khố quốc gia Thụy Điển" (Riksarkivet)

Từ thời vua Eric của Pomerania cũng có một trường hợp liên kết cờ Danebrog với Đan Mạch không thể tranh cãi. Dấu triện của ông từ năm 1398 với cương vị là vua của Liên minh Kalmar có thể hiện quốc huy Đan Mạch với ba con sư tử ở phần chính. Trong phiên bản này, vác sư tử mang lá cờ Danebrog. Thập tự chia huy hiệu hình khiên thành 4 phần cũng giống hệt thập tự của cờ Dannebrog, nhưng nhận xét này bị tranh cãi. Vì dấu triện đại diện cho cả ba vương quốc trong Liên minh, nên dường như thập tự này là thập tự trên cờ của Liên minh mà vua Eric tìm cách đưa vào: thập tự màu đỏ trên nền màu vàng.

File:State Banner of Denmark (14th Century).svg|Tập tin:FIAV historical.svgCờ Dannebrog được mô tả trong Tập huy hiệu Gelre File:Royal Banner of Denmark (14th Century).svg|Tập tin:FIAV historical.svgCờ hoàng gia của các vua Đan Mạch dựa trên huy hiệu hoàng gia.

Việc sử dụng cờ hiện nay

Như một cờ hiệu dân sự

Kích thước và hình dáng của cờ hiệu dân sự ("Koffardiflaget") dùng cho thương thuyền được ấn định trong quy định ngày 11.6.1748 như sau: Cờ màu đỏ với một hình thập tự màu trắng và đuôi cờ không xẻ chéo. Thập tự màu trắng phải bằng 1/7 chiều cao của cờ. Hai ô đầu tiên của cờ phải là hình vuông và 2 ô dưới phải là 6/4 chiều dài của các ô trên.

Các tỷ lệ là: 3:1:3 theo chiều dọc và 3:1:4.5 theo chiều ngang. Quy định này là những tỷ lệ tuyệt đối cho quốc kỳ Đan Mạch tới ngày nay, dùng cho cả phiên bản cờ dân sự ("Stutflaget"), cũng như cờ thương mại ("Handelsflaget"). Cả hai cờ đều giống nhau.

Năm 1758 có một quy định hơi kỳ lạ liên quan tới các tàu của Đan Mạch chạy trong Địa Trung Hải. Các tàu này phải mang logo "chữ kết tên hoàng gia" (royal cipher) ở giữa lá cờ, để phân biệt với các tàu của Malta, vì có sự giống nhau về cờ của "Dòng thánh Gioan" (cũng gọi là dòng Hiệp sĩ Cứu tế). Theo như được biết thì sự điều chỉnh này chưa bị hủy bỏ, tuy nhiên dường như nó không còn được áp dụng.

Theo quy định ngày 11.6.1748 thì cờ có màu đỏ đơn thuần, màu mà ngày nay thường được gọi là "màu đỏ cờ Dannebrog" ("Dannebrog rød"). Thuốc nhuộm màu đỏ duy nhất có được ở năm 1748 được làm bằng rễ cây Rubia (thuộc họ Thiến thảo), có thể xử lý để sản xuất ra thuốc nhuộm màu đỏ tươi. Theo quy định số 359 năm 2005 của Dansk Standard (Cơ quan định chuẩn Đan Mạch), thì màu đỏ của cờ là màu của hãng Pantone 186c. Không có định nghĩa sắc thái chính thức nào về "màu đỏ Dannebrog".

Trong thời gian khoảng gần 150 năm, không ai - kể cả chính phủ - đã để ý tôn trọng hoàn toàn các tỷ lệ của cờ được đưa ra trong quy định năm1748.

Các biến thể

Cờ xẻ đuôi và cờ Hải quân

Cờ xẻ đuôi (splitflag) và Cờ Hải quân (Orlogsflag) có cùng một hình dạng như nhau, nhưng khác nhau về kích thước và độ đậm của màu đỏ. Về mặt pháp lý, đó là 2 lá cờ khác nhau. Cờ xẻ đuôi là lá cờ Đan Mạch mà đuôi cờ xẻ chéo như đuôi chim én, có màu đỏ Dannebrog và được sử dụng trên đất liền. Cờ Hải quâncờ xẻ đuôi dài hơn, có màu đỏ đậm hơn và chỉ sử dụng trên biển cho Hải quân Hoàng gia Đan Mạch.

trái| Orlogsflag - Cờ của Hải quân Đan Mạch. [[Tập tin:FIAV 000001.svg Proportions: 7:17]]

Quy định đầu tiên liên quan tới Cờ xẻ đuôi được ban hành ngày 27.3.1630, trong đó vua Christian IV ra lệnh cho các tàu buôn có võ trang (Defensionskibe) của Na Uy chỉ được dùng Cờ xẻ đuôi khi phục vụ chiến tranh của Đan Mạch. Năm 1685 có một lệnh cho một số thành phố vùng Slesvig, nói rằng mọi tàu thủy phai mang cờ Đan Mạch, và năm 1690 cấm mọi tàu buôn sử dụng Cờ xẻ đuôi, ngoại trừ các tàu chạy trong vùng Đông Ấn, vùng Caribe và dọc theo bờ biển châu Phi. Năm 1741 có xác nhận là quy định năm 1690 vẫn còn hiệu lực, do đó các tàu buôn không được sử dụng Cờ xẻ đuôi. Đồng thời Công ty Đông Ấn của Đan Mạch được phép treo Cờ xẻ đuôi khi vượt qua xích đạo.

nhỏ|Cờ xẻ đuôi được kéo lên trong lễ khai mạc Câu lạc bộ chèo thuyền DSR

Mê tín

Văn hóa Đan Mạch cho rằng quốc kỳ Dannebrog không được để rơi xuống đất, vì cờ này từ trời rơi xuống; và cũng không được kéo cờ lên vào ban đêm, vì như vậy được coi là để chào Quỷ.

Các cờ khác của Vương quốc Đan Mạch

Đảo Greenland và Quần đảo Faroe là 2 nước tự trị trong Vương quốc Đan Mạch. Các nước này có cờ chính thức riêng của họ.

File:Flag of the Faroe Islands.svg|8:11 Cờ của quần đảo Faroe File:Flag of Greenland.svg|2:3 Cờ của Greenland

Cờ của các vùng

Một số Vùng của Đan Mạch có cờ không chính thức. Cờ vùng Bornholm và đảo Ærø đang được sử dụng. Cờ vùng Vendsyssel (Vendelbrog) và cờ vùng Jutland ("Den jyske fane") ít được biết đến, vì không được nhìn nhận là hợp pháp. Đan Mạch giữ việc công nhận chính thức cho các cờ chính thức và các cờ của vùng (områdeflag) thì thuộc các quyền tài phán khác.

Cờ của Volyn Oblast, Ukraina rất giống cờ Dannebrog của Đan Mạch.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quốc kỳ Đan Mạch** (; ) là một lá cờ màu đỏ, có hình thập tự màu trắng kéo dài tới các cạnh. Thiết kế hình thánh giá trên cờ thể hiện cho Kitô giáo,
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch** () là đội tuyển bóng đá đại diện cho Đan Mạch trên bình diện quốc tế. Đội được quản lý bởi Hiệp hội bóng đá Đan Mạch
**Quốc hội Đan Mạch** ( , ) là cơ quan lập pháp đơn viện của Vương quốc Đan Mạch. Được thành lập vào năm 1849, Quốc hội từng là lưỡng viện cho đến khi thượng
**Quốc kỳ Iceland** () được chính phủ nước Cộng hòa Iceland quy đinh chính thức ngày 17 tháng 6 năm 1944 khi nước này độc lập khỏi Đan Mạch. Nền cờ màu lam, trên có
**Quốc kỳ Na Uy** () là một lá cờ màu đỏ - có hình chữ thập mờ màu trắng trải dài tới các cạnh của lá cờ; phần thẳng đứng của cây thập tự được
**Quốc kỳ Đức** () gồm ba dải ngang bằng hiển thị các màu quốc gia của Đức: đen, đỏ, vàng. Thiết kế này được thông qua làm quốc kỳ của nước Đức hiện đại vào
**Danh sách quốc kỳ** của các quốc gia trên thế giới. ## Quốc gia là thành viên Liên Hợp Quốc ### A File:Flag of the Taliban.svg|Quốc kỳ Afghanistan Tập tin:Flag of Egypt.svg|Quốc kỳ
**Quốc kỳ Thụy Điển** () là một lá cờ màu lam - có hình thập tự vàng. Nó bao gồm Cờ Thánh giá Bắc Âu màu vàng hoặc màu vàng kim (tức là chữ thập
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các
**Văn hóa Đan Mạch** có một di sản kiến thức và nghệ thuật phong phú. Các khám phá thiên văn của Tycho Brahe (1546–1601), Ludwig A. Colding (1815–1888) đã khớp nối định luật bảo toàn
**Chế độ quân chủ của Đan Mạch** là một chế độ chính trị đang hiện hành theo Hiến pháp và có hệ thống tổ chức ở Vương quốc Đan Mạch. Lãnh thổ của Đan Mạch
Bài viết này ghi lại các tác động của đại dịch coronavirus 2019 ở Đan Mạch, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính hiện đại. Trường hợp
**Alexandra của Đan Mạch** (Tên đầy đủ: Alexandra Caroline Marie Louise Charlotte Julia; 1 tháng 12 năm 1844 – 20 tháng 11 năm 1925) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc
**Christian của Đan Mạch, Bá tước xứ Monpezat** (**Christian Valdemar Henri John**, sinh ngày 15 tháng 10 năm 2005) là con trai trưởng của Quốc vương Frederik X và Vương hậu Mary của Đan Mạch.
**Christian IX** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1818 – 29 tháng 1 năm 1906) là Vua của Vương quốc Đan Mạch từ năm 1863 cho đến khi ông qua đời vào năm 1906. Từ
nhỏ|Krone Đan Mạch **Krone Đan Mạch** (ký hiệu: **kr**; mã ISO 4217: **DKK**) là đơn vị tiền tệ của Đan Mạch bao gồm cả các lãnh thổ tự trị Greenland và Quần đảo Faroe. Đồng
**Frederik X của Đan Mạch** (sinh 26 tháng 5 năm 1968) là đương kim Quốc vương Đan Mạch. Triều đại ông bắt đầu vào ngày 14 tháng 1 năm 2024, kế thừa vương vị sau
**Tây Ấn thuộc Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Dansk Vestindien_) hay **Quần đảo Virgin thuộc Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danske Jomfruøer_) hay **Antilles thuộc Đan Mạch** là một thuộc địa của Đan Mạch ở
Đây là **danh sách vị quân chủ Đan Mạch**, trong đó có: * Vương quốc Đan Mạch (đến năm 1397) ** Liên minh cá nhân Đan Mạch và Na Uy (1380–1397) * Liên minh Kalmar
Có bốn vườn quốc gia tại Vương quốc Đan Mạch; ba trong số đó thuộc Đan Mạch và một ở Greenland. Vườn quốc gia Thy là vườn quốc gia đầu tiên nằm tại Đan Mạch
thumb|Xu bạc: 2 rigsdaler kỷ niệm, chỉ đúc 101.000 xu - Kỷ niệm **Frederik VII** băng hà và vua [[Christian IX của Đan Mạch|Christian IX lên kế vị]] **Frederick VII** (_Frederik Carl Christian_) (6 tháng
**Vincent của Đan Mạch, Bá tước của Monpezat** (tên đầy đủ là _Vincent Frederik Minik Alexander_, sinh ngày 8 tháng 1 năm 2011) là người con thứ ba của Frederik X của Đan Mạch và
**Christian X của Đan Mạch** (_Christian Carl Frederik Albert Alexander Vilhelm_; ngày 26 tháng 09 năm 1870 – ngày 20 tháng 04 năm 1947) là vua của Vương quốc Đan Mạch giai đoạn 1912-1947 và
**Christian IV** (; 12 tháng 4 năm 1577 - 28 tháng 2 năm 1648), đôi khi được gọi là **Christian Firtal** ở Đan Mạch và **Christian Kvart** hoặc **Quart** ở Na Uy, là vua Đan
**Frederik V của Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy: _Frederik V_; 31 tháng 3 năm 1723 – 14 tháng 1 năm 1766) là Quốc vương Đan Mạch và Na Uy và là
**Trận Đan Mạch** là tên gọi cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã băng qua biên giới Đan Mạch ngày 9 tháng 4 năm 1940 trên cả ba mặt trận đất liền, biển
**Lịch sử của Đan Mạch** với tư cách là một vương quốc thống nhất bắt đầu từ thế kỷ thứ 8, nhưng các tài liệu lịch sử mô tả khu vực địa lý và người
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**_Cô gái Đan Mạch_** (tên gốc: **_The Danish Girl_**) là một phim thuộc thể loại tiểu sử của Anh Quốc, phát hành 2015, được đạo diễn bởi Tom Hooper, dựa trên một cuốn truyện cùng
**Dagmar của Đan Mạch** (26 tháng 11 năm 1847 – 13 tháng 10 năm 1928), sau khi lấy chồng thì sử dụng tên tiếng Nga **Mariya Feodorovna** (), là Hoàng hậu của Đế quốc Nga
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Đan Mạch – Na Uy** () là một nhà nước đa quốc gia và đa ngôn ngữ thời kỳ đầu hiện đại bao gồm vương quốc Đan Mạch, vương quốc Na Uy (bao gồm Na
**Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch** (; ; – 3 tháng 12 năm 1944) của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg, là con thứ bảy và là con trai thứ tư của Vua Georgios I của Hy Lạp
**Maria của Hy Lạp và Đan Mạch** (tiếng Hy Lạp: _Μαρία της Ελλάδας και της Δανίας_; tiếng Nga: _Мария Гре́ческая и Да́тская_; tiếng Đan Mạch: _Maria af Grækenland og Danmark_; tiếng Đức: _Maria von Griechenland
**Quốc gia dân tộc** (_tiếng Anh_: **Nation-state** hay **Country**) là một quốc gia tồn tại để đại diện chủ quyền cho một dân tộc. Quốc gia dân tộc không chỉ là một thực thể chính
**Margrethe II của Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Margrethe_), sinh ngày 16 tháng 4 năm 1940, là Nữ vương của Vương quốc Đan Mạch, cũng như là lãnh đạo tôn giáo của Nhà thờ Đan
**Vương quốc Đan Mạch** (, là một cộng đồng quân chủ lập hiến gồm Đan Mạch (chính quốc) ở Bắc Âu và hai quốc gia (hoặc vùng lãnh thổ) tự trị cấu thành là Quần
nhỏ|phải nhỏ|phải|Một món ăn Đan Mạch **Ẩm thực Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _det Danske køkken_), bắt nguồn từ các nông sản của cư dân địa phương, được chế biến bằng các kỹ thuật phát
**Anna của Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Anna af Danmark_; tiếng Anh: _Anne of Denmark_; 12 tháng 12, năm 1574 - 2 tháng 3, năm 1619), là một vương nữ người Đan Mạch, và là
Đan Mạch có một nền kinh tế mở và năng động. Do chi phí trả lương cho người lao động cao, 39,29 USD/một giờ cho một công nhân - một con số cao nhất thế
**Chiến tranh Thụy Điển - Đan Mạch (1658 - 1660)** là cuộc chiến tranh thứ hai của vua Karl X Gustav của Thụy Điển chống Đan Mạch. Cuộc chiến tranh này xảy ra chỉ chưa
**Quan hệ Pháp – Đan Mạch** là mối quan hệ song phương giữa Đan Mạch và Pháp trong hiện tại và quá khứ. Đan Mạch có đại sứ quán ở Paris và Pháp có đại
**Vương tôn nữ Elisabeth của Đan Mạch**, RE (tên đầy đủ là _Elisabeth Caroline-Mathilde Alexandrine Helena Olga Thyra Feodora Estrid Margrethe Desirée_, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1935 ở Copenhagen) là con gái của
**Isabella của Đan Mạch, Nữ Bá tước của Monpezat** (tên đầy đủ là _Isabella Henrietta Ingrid Margrethe_, sinh ngày 21 tháng 4 năm 2007) là con thứ hai của Frederik X của Đan Mạch và
**Josephine của Đan Mạch, Nữ Bá tước của Monpezat** (tên đầy đủ là _Josephine Sophia Ivalo Mathilda_, sinh ngày 8 tháng 1 năm 2011) là con gái út của Frederik X của Đan Mạch và
**Marina của Hy Lạp và Đan Mạch** (_Princess Marina of Greece and Denmark_, 13 tháng 12 năm 1906 - 27 tháng 8 năm 1968), sau là **Vương tôn nữ Marina, Công tước phu nhân xứ
**Theodora của Hy Lạp và Đan Mạch** (sinh ngày 09 tháng 06 năm 1983 tại Luân Đôn) là cô con gái nhỏ nhất và con thứ tư của cựu vương Konstantinos II của Hy Lạp
Ủy ban Di sản thế giới là một cơ quan của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), đây là tổ chức có tầm quan trọng đến việc bảo
**Cuộc chiến tranh Thụy Điển-Đan Mạch (1657-1658)** là cuộc chiến tranh giữa Thụy Điển liên minh cùng công quốc Holstein với Đan Mạch và Na Uy thời vua Karl X Gustav của Thụy Điển. ##