Phạm Tu (chữ Hán: 范脩, 476-545) là võ tướng, công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công giúp Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân độc lập.
Tiểu sử
Theo thần tích, Phạm Tu người ở trang Quang Liệt tức là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì (tên cũ là huyện Thanh Đàm), nay thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam. Nơi sinh ra Phạm Tu được xác định xưa kia là một xóm bãi vải tiến vua nằm bên sông Tô Lịch, thuộc thôn Văn Trì, làng Quang Liệt, nay là thôn Văn, xã Thanh Liệt.
Phạm Tu sinh ngày 10 tháng 3 năm Bính Thìn (tức 19 tháng 4 năm 476), cha ông là Phạm Thiều, người gốc Yết (Hung Nô), mẹ là Lý Thị Trạch.
Khi lớn lên, Phạm Tu có gương mặt phương phi, khôi ngô tuấn tú, học giỏi, tư chất thông minh, hay đọc sách binh pháp. Ông có vóc dáng rất to khoẻ và trở thành đô vật nổi tiếng trong vùng, thường được gọi là Phạm Đô Tu. Ông có khả năng cưỡi ngựa và bắn cung thiện xạ, nên được vinh là Đô Hồ, ám chỉ người gốc Hồ.
Sau đây là 5 điều tổng kết về cuộc đời ông:
- Khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban Võ nhà nước Vạn Xuân
- Sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, Ông đã hy sinh ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô trên đất hương Long Đỗ cổ
- Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, giải phóng đất nước, kháng chiến chống quân Lương xâm lược
- Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm quân giữ yên bờ cõi phía Nam
- Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long
Phò vua Lý đuổi Tiêu Tư
Bấy giờ Việt Nam nằm dưới quyền đô hộ của nhà Lương thời Nam Bắc triều (Trung Quốc). Viên thứ sử cai trị là Tiêu Tư nổi tiếng tàn ác.
Cuối năm Tân Dậu (tháng 1 năm 542), Giám quân châu Cửu Đức là Lý Bí dấy binh khởi nghĩa, chống lại quân đô hộ nhà Lương. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí được nhân dân và hào kiệt khắp nơi ủng hộ, kéo về giúp sức như hào trưởng Triệu Túc và Tinh Thiều, nguyên là quan cai trị của nhà Lương, bỏ quan chức về với quân khởi nghĩa.
Năm ấy Phạm Tu đã 66 tuổi, song còn khỏe mạnh và hăng hái. Ông tập hợp binh mã, gia nhập quân khởi nghĩa và trở thành một võ tướng chủ chốt của quân khởi nghĩa. Ông cùng với Triệu Túc và Tinh Thiều, trở thành ba vị lãnh đạo chính trong bộ tham mưu của cuộc nổi dậy của Lý Bí. Quân khởi nghĩa đánh đâu thắng đấy. Thứ sử Tiêu Tư bỏ chạy về nước. Quân Lý Bí chiếm đóng thành Long Biên.
Đánh đuổi Lâm Ấp
Năm 543, nhà Lương lại tập trung quân kéo sang đánh. Lý Bí chủ động đem quân tấn công địch, tiêu diệt phần lớn quân Lương.
Tháng 5 năm 543, vua Lâm Ấp nhân lúc quân khởi nghĩa đang phải đương đầu với phương Bắc, đem quân đánh phá vùng Cửu Đức (Hà Tĩnh ngày nay). Lý Bí cử Phạm Tu mang quân đi đánh. Phạm Tu nhận lệnh cầm quân xuống đánh tan quân Lâm Ấp, ổn định biên giới phía Nam.
Có thuyết cho rằng nhờ công đánh Lâm Ấp, ông được cải sang họ vua là họ Lý và tên là Phục Man (chinh phục người Man), Phạm Tu chính là Lý Phục Man; nhưng cũng có ý kiến cho rằng Phạm Tu và Lý Phục Man là 2 người khác nhau.
Quan võ đầu triều
Năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, xưng Nam Việt Đế, tức là Lý Nam Đế đặt tên nước là Vạn Xuân, dựng điện Vạn thọ làm nơi triều hội, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu các quan văn, Phạm Tu đứng đầu các quan võ của triều đình. Năm ấy Phạm Tu 69 tuổi.
Hy sinh vì nước
Tháng 6 năm 545, nhà Lương cử một đạo quân khác sang đánh Vạn Xuân, do hai tướng thiện chiến là Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ huy, theo đường biển tiến sang. Lý Nam Đế chống cự ở Chu Diên (vùng duyên hải Hải Dương, Hưng Yên, Lục đầu giang?) không nổi, lui về củng cố thành trì ở cửa sông Tô Lịch (nay là đoạn phố Chợ Gạo, Hà Nội).
Quân Lương đuổi tới tấn công. Phạm Tu lập sở chỉ huy tiền phương (bên Hồ Hoàn Kiếm ngày nay) giữ cửa sông Tô Lịch được vài tháng, nhưng vì tuổi cao sau nhiều năm xung trận, quân giặc lại đông, gặp lúc hiểm nghèo nên Lão tướng Phạm Tu đã hy sinh anh dũng vào ngày 20 tháng 7 âm lịch (tức 12 tháng 8 năm 545), thọ 70 tuổi.
Lý Nam Đế rút quân vào Gia Ninh đóng đồn ở hồ Điển Triệt, luyện tập binh mã để sau khôi phục lại.
Xét công trạng của Phạm Tu, nhà Vua truy phong Phạm Tu là Long Biên hầu, đặt thuỵ là Đô Hồ, phong làm Bản cảnh thành hoàng, sắc cho bản hương là Thang Mộc ấp, sưu sai tạp dịch đều được miễn trừ, ban 100 nén bạc lập miếu phụng sự lưu truyền mãi mãi tại làng Thanh Liệt quê ông.
Nơi thờ cúng
Hiện nay ở xã Thanh Liệt có hai nơi thờ danh tướng Phạm Tu, đó là Miếu Vực và Đình Ngoài. Miếu Vực nằm ở xóm Vực, miếu thờ Long Biên hầu Phạm Đô Hồ Đại vương cùng thánh phụ Phạm Thiều và thánh mẫu Lý Thị Trạch.
Theo cuốn "Thành hoàng Việt Nam" của Phạm Minh Thảo (Nhà xuất bản. Văn hóa thông tin, H., 1997, tập II, tr.565), cùng những tài liệu điền dã: nơi thờ chính thức của Phạm Tu ở Đình Ngoại, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.
Chính quê ông còn có miếu Vực thờ ông cùng hai vị song thân là Phạm Thiều và Lý Thị Trạch. Đình Lý Nhân là nơi thờ vọng Phạm Tu ở cùng xã Thanh Liệt vì đình Ngoại trước đây là nơi hương lý hội họp.
Phần mộ của ông trên vùng đất cửa sông Tô Lịch (nơi ông ngã xuống khi chống quân xâm lược nhà Lương năm 545) cũng là một địa chỉ tâm linh quan trọng.
Đình Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai thờ Lý Nam Đế và Phạm Tu (Á thánh) là thành hoàng làng.
Tại thôn Hoành Sơn xã Thuỵ Văn huyện Thái Thụy, Thái Bình cũng có nơi thờ Phạm Tu.
Bên cạnh đó, qua cuốn "Linh thần Việt Nam" của GS Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, H. 2002), còn tìm được 3 địa phương có thờ vị Đô Hồ Đại vương, tuy nhiên chưa xác định được những nơi đó có phải chính là nơi thờ Đô Hồ Đại vương Phạm Tu hay không.
Xã Linh Khê, Nam Sách, Hải Dương thờ 3 vị đại vương: Uy Minh, Quy Chân, Đô Hồ đại vương
Xã Hương Vân, tổng Nội Viên, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Đô Hồ đại vương và Hải Tịnh phu nhân công chúa
Xã Nhân Hào Thượng, tổng Sài Trang, Yên Mỹ, Hưng Yên thờ Đô Hồ tế thế đại vương.
Tại đền Thượng, làng Mai Xá, xã Mỹ Xá, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định còn lưu giữ ít nhất 10 sắc phong các đời vua ghi công trạng Đô Hồ Đại Vương.
Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở huyện Thanh Trì quê hương ông, nối từ ngã tư Nghiêm Xuân Yêm - Nguyễn Xiển đi bên cạnh nhà máy xử lý nước thải Yên Xá đến đường Cầu Bươu tại đối diện khu đô thị Xa La.
Hậu thế
Chính sử không ghi chép, nhưng theo tộc phả họ Phạm, Phạm Tu có con là Phạm Tĩnh theo giúp Hậu Lý Nam Đế và khuyên vua Lý dời đô từ Ô Diên về Phong châu. Ông trở thành tướng quốc của Hậu Lý Nam Đế.
Con Phạm Tĩnh là Phạm Hiển, sau khi Lý Phật Tử bị quân nhà Tuỳ bắt về bắc đã chiêu binh chống Tùy trong 3 năm (603-605) và bị thất bại.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vũ Phạm Từ** (30 tháng 5 năm 1926 – 2006) là một đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú và là 1
**Phạm Tu** (chữ Hán: 范脩, 476-545) là võ tướng, công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công giúp Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
Về Phạm Tu, nhiều tác giả đã viết kỹ nhưng về dòng Phạm Tu thì việc nghiên cứu chưa sâu. Ở quê Thanh Liệt hiện không có phả cổ nào ghi chép về hậu duệ
Các dòng họ Phạm – Việt Nam không có một ông tổ duy nhất. Do vậy, theo dòng họ Phạm Việt Nam đề nghị suy tôn Đô Hồ Đại vương Phạm Tu là một Thượng
Ngày 26 tháng 08 năm 2018, tại Hội trường Đông Hồ, số 197 đường Cao Thắng, P 12, Quận 10, Tp Hồ Chí Minh, nhân dịp Hội Đồng Họ Phạm Tp. HCM tổ chức Lễ
- Thời gian: 08h00 Sáng ngày 3/9/2023 (19/7AL) - Địa điểm: tại nhà Thờ Tộc Phạm Cẩm Sa, Điện Nam Bắc- Đại diện chính quyền địa phương, HĐGT các họ trên địa bàn QNĐN như
- Thời gian: Sáng 4/9/2023 (20/7 Quý Mão) - Địa điểm: tại nhà thờ Họ Phạm tỉnh, xã Diên Phước, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa- Các thành viên trong HĐHP tỉnh - Ban Vận động
Đền thờ nhìn từ Hồ Sen Hình sông, thế đất quần tụ tạo nên một Thanh Liệt với những thắng cảnh đẹp nên thơ: - Đình Ngoại: thờ Lão tướng Phạm Tu (476-545) -
**Phạm Tử Dương** (1929–2009) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Phó Viện trưởng kiêm Chủ nhiệm khoa A1 Bệnh viện
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva** (tiếng Nga: _Московский Педагогический Государственный Университет_ (МПГУ), tiếng Anh: _Moscow State Pedagogical University_ (MSPU)), thành lập năm 1872, là một cơ sở giáo dục và khoa học lớn
**Phạm Huy Thông** (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Huy Thông** sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một
**Tự sát giết người** (_Murder–suicide_) là hành vi mà cá nhân giết chết một hoặc nhiều người khác trước hoặc trong quá trình tự sát của chính họ. Sự kết hợp giữa giết người và
**Khu ủy Khu tự trị Nội Mông Cổ** là khu ủy của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Khu tự trị Nội Mông Cổ. Bí thư Khu ủy là chức vụ cấp cao nhất trong
**Tự sát** (Hán tự: 自殺, có nghĩa là "tự giết", tiếng Anh: _suicide._ Bắt nguồn từ Tiếng Latinh: _Suicidium, từ_ chữ _sui caedere_ nghĩa là "giết chính mình") hay **tự tử**, **quyên sinh**, **trẫm mình**,
Tu chính án 1 (Tu chính án I) Hiến pháp Hoa Kỳ cấm việc đưa ra bất kỳ luật nào không tôn trọng việc thiết lập tôn giáo, đảm bảo rằng không có lệnh cấm
Xuất Xứ: Đông y Phạm Tuân - tổ 7 - Tây sơn - Tam điệp - Ninh BìnhQuy Cách: Đóng chaiDùng cho tất cả các vấn đề về gàu và nấm ngứa da đầu.Thành phần:
Xuất Xứ: Đông y Phạm Tuân - tổ 7 - Tây sơn - Tam điệp - Ninh BìnhQuy Cách: Đóng chaiDùng cho tất cả các vấn đề về gàu và nấm ngứa da đầu.Thành phần:
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Giải Tự do Báo chí Quốc tế** (tiếng Anh: _International Press Freedom Awards_) là một giải thưởng được Ủy ban bảo vệ các nhà báo thành lập năm 1991 nhằm vinh danh các nhà báo
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
**Trường Trung học phổ thông chuyên, Đại học Sư phạm Hà Nội** (), tiền thân là Khối Trung học phổ thông chuyên Toán–Tin của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thường gọi là **Chuyên
Phạm Duy Khiêm năm 1943 **Phạm Duy Khiêm** (1908–1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn
**Phạm Kỳ Nam** (27 tháng 6 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 1984) là đạo diễn phim truyện và phim tài liệu được xem là một trong những cánh chim đầu đàn của nền
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
Dòng họ Phạm làng Ngù từ khi cụ Phạm Văn Bích dời quê cũ ở Tổng Yên Riệt đến lập nghiệp, từ hai bàn tay trắng gây dựng nên dòng họ đã phát triển hơn
phải|nhỏ| Một quảng cáo cho các dịch vụ chuẩn bị bản quyền và bằng sáng chế từ năm 1906, khi các thủ tục đăng ký bản quyền vẫn được yêu cầu ở Mỹ **Vi phạm
**Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Education_ – **HCMUE**) được thành lập ngày 27 tháng 10 năm 1976 theo Quyết định số 426/TTg
**Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2** (tên tiếng Anh: _Hanoi Pedagogical University 2_) là trường đại học công lập được thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1967 theo Quyết định số 128/CP
**Phạm Lãi** (chữ Hán: 范蠡) (525 TCN - 455 TCN), biểu tự **Thiếu Bá** (少伯), còn gọi là **Phạm Bá** (范伯), **Si Di Tử Bì** (鸱夷子皮) hay **Đào Chu Công** (陶朱公), là một danh thần
**Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Technology and Education_) là một trường đại học đa ngành tại Việt Nam, với thế
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
nhỏ|Tội phạm công nghệ cao thường gắn liền với hành vi làm rò rỉ dữ liệu riêng tư **Tội phạm công nghệ cao** hoặc **Tội phạm ảo** hay **Tội phạm không gian ảo (tiếng Anh:
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
Phạm là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Nhân kỷ niệm 19 năm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10/2004 - 13/10/2023), CLB Doanh nhân họ Phạm Việt Nam (CLBDNHPVN) - trực thuộc Hội đồng họ Phạm Việt Nam (HĐHPVN) đã tổ chức sự
**Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật** là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản
**Phạm Xuân Ẩn** (12 tháng 9 năm 1927 – 20 tháng 9 năm 2006), tên khai sinh là Phạm Văn Thành, là một thiếu tướng tình báo người Việt Nam, có các biệt danh là
**Tội phạm có tổ chức** là tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội khi có từ hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm, được gọi là _đồng phạm_. ## Định nghĩa Mọi