✨Ni Tổ Theravāda Việt Nam (song ngữ Anh – Việt)

Cuốn sách ghi chép cuộc đời của Sư bà trưởng Diệu Đáng (1924-1994), có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pāḷi là Vissutañāṇī (nghĩa là người có trí tuệ lẫy lừng); thường được gọi là “Sư bà” hay “Bà trưởng”....

Cuốn sách ghi chép cuộc đời của Sư bà trưởng Diệu Đáng (1924-1994), có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pāḷi là Vissutañāṇī (nghĩa là người có trí tuệ lẫy lừng); thường được gọi là “Sư bà” hay “Bà trưởng”.

Sư bà trưởng Diệu Đáng, vị nữ tu Theravāda đầu tiên của nước Việt đã để lại cho đạo Phật một tấm gương hoằng pháp thầm lặng. Sư bà trưởng là bậc thầy đặc biệt lãnh đạo hội chúng bằng pháp tu tập, chứ không dùng quyền lực. Những đức hạnh khiêm nhường, khiêm hạ, ít nói, thinh lặng phụng sự Tam Bảo của Sư bà trưởng đã toát lên sự hoàn hảo về Tâm - Đức - Hạnh của một bậc xuất gia. Sư bà trưởng Diệu Đáng thật sự xứng danh là vị Ni Tổ nữ tu Theravāda tại Việt Nam cao đẹp song toàn về thân giáo và khẩu giáo, đúng với tinh thần “học để tu” của một bậc xuất gia nguyên thủy chơn chánh.

Sư bà trưởng Diệu Đáng là nữ tu Việt Nam đầu tiên xuất gia tu học theo truyền thống Nam truyền (Theravāda) và được tôn kính như vị Ni Tổ đã góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Theravāda tại Việt Nam. Trích đoạn sách: Sư bà trưởng có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pāḷi là Vissutañāṇī (nghĩa là người có trí tuệ lẫy lừng); thường được gọi là “Sư bà” hay “Bà trưởng”. Sư bà trưởng được sinh ra trong một gia đình trung lưu trí thức, là người con gái thứ tư của cụ ông Lê Văn Giảng (1893-1981) và cụ bà Võ Thị Nhung. Lúc sinh thời, cụ ông là một vị bác sĩ thú y lập nghiệp tại Nam Vang (Campuchia). Sư bà trưởng được sinh ra và lớn lên tại Campuchia trong thời kỳ Pháp thuộc nên Sư bà trưởng thông thạo cả ba ngôn ngữ: Việt, Khmer và Pháp. Cuộc sống hằng ngày xứ sở chùa tháp đã gắn liền với tuổi thơ Sư bà trưởng từ hình ảnh chư Tăng tu học, đi trì bình khất thực Sư Tổ Hộ Tông cho Sư bà trưởng chiêm bái xá lợi Phật, tại chùa Bửu Long năm 1970đến lời kinh tiếng kệ Pāḷi vang vọng mỗi sáng chiều. Trong văn hóa Campuchia thì chuyện xuất gia tu học chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ thường chỉ đến chùa cúng dường, nghe pháp, tu hành theo hạnh của người cư sĩ hộ trì chư Tăng. Khi về già, các bà thường “xuất gia” theo hình thức cạo đầu, mặc áo trắng, quấn sa-rông đen, thọ trì giới Bát quan trai, sáng vào chùa tu tập theo thời khóa, chiều tối về lại tư gia. Do đó, dù lớn lên trong môi trường đầy hương vị đạo Ni Tổ Theravāda Việt Nam pháp và có lòng tịnh tín nơi Tam Bảo, Sư bà trưởng lúc đó cũng như bao người phụ nữ khác, chưa một lần nghĩ đến chuyện xuống tóc xuất gia. Thế nhưng… Trong cuộc đời này, khó có thể nhìn thấy trước được phước duyên mỗi người ngày sau sẽ ra sao. Năm 1941, vào một ngày nọ, thân phụ Sư bà trưởng, tức là cụ ông Lê Văn Giảng, đã xuất gia thành vị Tỳ khưu Theravāda có đạo hiệu là Hộ Tông và sau này cụ trở thành vị Tăng thống (Sangha Nāyaka) đầu tiên của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. Sư Tổ họp các con trong gia đình lại hỏi: “Có ai muốn tu theo không?” Trong bối cảnh ấy, tâm hồn Sư bà trưởng tựa hồ như cây đang chờ ngày ra hoa, Sư bà trưởng đã không chút phân vân do dự, liền trả lời: “Dạ muốn”. Thế là sau hôm đó, Ngài Hộ Tông xuất gia năm 1940 và trở thành Tăng thống năm 1957. Thời điểm ngài hỏi ý các con trong gia đình về chuyện đi tu theo ngài thì lúc đó ngài chưa phải Tăng thống, ngài là nhà sư mới xuất gia. cô nữ sinh 17 tuổi trở thành vị sư nữ tại chùa Sùng Phước, Nam Vang. Từ đó, người con gái mang tên Lê Thị Tư có pháp danh Diệu Đáng, đã hiển nhiên trở thành vị sư nữ đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Theravāda Việt Nam. Vào những năm đầu khi người Việt mới biết đến Phật giáo Theravāda, phần lớn đệ tử xuất gia theo hệ phái này là nam giới, duy chỉ có Sư bà trưởng Diệu Đáng là người nữ đầu tiên thế phát xuất gia trong buổi sơ khai này. Quyết định xuất gia của Sư bà trưởng lúc đó chỉ đơn thuần để phụng dưỡng, báo hiếu cho thân phụ nhưng sau khi cất bước vào hành trình thì hoàn toàn khác, Người không chỉ tận tụy chăm sóc cho Sư Tổ mà còn miệt mài đèn sách, học hỏi kinh luật từ các vị trưởng lão thời bấy giờ. Sư bà trưởng vốn tính siêng năng, cần mẫn nên Người luôn tự rèn luyện bản thân mình, không bỏ lỡ một cơ hội nào trong việc học tập và hành trì giáo pháp.

Mục lục: Sư bà Trưởng Diệu Đáng Ni Tổ nữ tu Theravāda Việt Nam Tuổi thơ tại Campuchia và những ngày đầu xuất gia Theo chân Sư Tổ Hoằng Đạo trên đất Việt Thành công tu học tại Miến Điện Hồi hương – tiếp tục con đường lợi tha Thiền định nơi đất Thái – vân du hoằng đạo Từ chối dù được thỉnh mời giảng dạy Vi Diệu Pháp Ven.Nun Dieu Dang (Vissutañāī therī) The first theravāda nun in Vietnam Her youth life Her religious life in the first period Her success in Myanmar Her mission in Vietnam Her meditation practice in Thailand & her wandering in Vietnam The purpose of her study dhamma Her passing away Công ty Cổ phần Sách Thái Hà trân trọng giới thiệu!

👁️ 78 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
VNĐ: 79,000
Ni Tổ Theravāda Việt Nam (song ngữ Anh – Việt)   [ThaiHaBooks]  Cuốn sách ghi chép cuộc đời của Sư bà trưởng Diệu Đáng ( 1924-1994), có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pāḷi là Vissutañāṇī
Cuốn sách ghi chép cuộc đời của Sư bà trưởng Diệu Đáng (1924-1994), có thế danh là Lê Thị Tư, tên Pāḷi là Vissutañāṇī (nghĩa là người có trí tuệ lẫy lừng); thường được gọi
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Ngũ giới** (tiếng Phạn: ; tiếng Pali: ), hay **năm học giới** (tiếng Phạn: ; tiếng Pali: ), là hệ thống đạo đức quan trọng nhất dành cho người Phật tử tại gia. Đây là
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
phải|nhỏ|314x314px|Một [[Tì-kheo|nhà sư Trung Á đang giảng cho một nhà sư Trung Hoa. Hang động Bezeklik, thế kỷ 9–10; mặc dù Albert von Le Coq (1913) cho rằng nhà sư tóc đỏ, mắt xanh là
**Tam tạng** (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
nhỏ|phải|Tôn giả A-nan-đà, nổi danh là người "nghe và nhớ nhiều nhất", được xem là Nhị tổ [[Thiền tông Ấn Độ]] **A-nan-đà** (Ānanda, zh. 阿難陀, sa., pi. _ānanda_, bo. _kun dga` bo_ ཀུན་དགའ་བོ་), thường viết
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|Hình tượng Khẩn Na La nguyên thủy, sinh vật huyền thoại này có hình dạng ban đầu trong hình hài tổng thể của một con ngựa nhỏ|Khẩn Na La nguyên thủy có hình dạng của
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
**Chùa Phật Lớn**, tên chữ là **Thiên Trúc tự**, là một ngôi chùa cổ Việt Nam. Chùa tọa lạc tại số 197/11 đường Phương Thành, phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.
  nhỏ|Phiên bản tiêu chuẩn của Kinh điển Pali Thái Lan **Kinh điển Pāli** là bộ tổng tập kinh điển tiêu chuẩn trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, được bảo tồn bằng ngôn
**Ương-quật-ma-la** (, , nghĩa đen: “dây chuyền ngón tay”, hay còn được biết là **Vô Não** hay **Trưởng lão Chỉ Man**) là một nhân vật quan trọng trong Phật giáo, đặc biệt là trong truyền
phải|nhỏ|305x305px|Bản đồ các trung tâm địa lý chính của các trường phái Phật học lớn ở Nam Á, vào khoảng thời gian [[Huyền Trang du hành đến vào thế kỷ VII.
* Màu đỏ: trường
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi