✨Người Dayak

Người Dayak

Người Dayak hoặc Dyak hoặc Dayuh là những dân tộc bản địa của Borneo. Đây là nhóm dân tộc với hơn 200 tiểu nhóm dân tộc sống ven sông và đồi, chủ yếu ở nội địa miền Trung và miền Nam của Borneo, với phương ngữ, phong tục, luật, lãnh thổ và văn hóa riêng. Ngôn ngữ Dayak được phân loại như một phần của ngữ hệ Nam Đảo ở châu Á. Dân tộc Dayak theo tín ngưỡng thuyết vật linh; tuy nhiên, nhiều người đã cải đạo sang Hồi giáo và từ thế kỷ XIX đã có sự chuyển đổi hàng loạt sang Kitô giáo.

thumb|Nam thanh niên dân tộc Murut trong trang phục truyền thống tại Làng văn hóa Monsopiad, Kg. Kuai Kandazon, [[Penampang, Sabah]]. thumb|Tốp nam thanh niên dân tộc Murut chơi trò Lansaran

Ngôn ngữ

Người Dayak không chỉ nói một ngôn ngữ. Các ngôn ngữ bản xứ của họ thuộc về phân loại chung thuộc Ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo và các nhóm ngôn ngữ Borneo và Sabahan đa dạng (kể cả Land Dayak), và các ngôn ngữ Ibanic của nhánh ngôn ngữ Malayic. Hầu hết người Dayaks ngày nay sử dụng song ngữ, ngoài ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, họ thạo tiếng Malay hoặc Indonesia, tùy thuộc vào quốc gia xuất xứ của họ.

Nhiều ngôn ngữ ở Borneo là đặc hữu (có nghĩa là chúng không được nói ở đâu khác). Người ta ước tính rằng khoảng 170 ngôn ngữ và tiếng địa phương được nói trên đảo và một số chỉ được sử dụng bởi vài trăm người, do đó đặt ra một nguy cơ nghiêm trọng cho tương lai của những ngôn ngữ và di sản liên quan.

Tôn giáo và lễ hội

thumb|Thủ lĩnh dân tộc Dayak đang cầm một cây giáo và khiên Klebit Bok

Tôn giáo bản địa Dayak đã được đặt tên là Kaharedan, và có thể được cho là một dạng vật linh. Tên được đặt ra bởi Tjilik Riwut vào năm 1944 trong nhiệm kỳ của ông là một cư dân thuộc địa Hà Lan ở Sampit, Dutch East Indies. Vào năm 1945, trong thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản, người Nhật đã gọi Kaharedan là tôn giáo của người Dayak. Trong trật tự mới trong chế độ Suharto năm 1980, Kaharedan được đăng ký như một hình thức của Ấn Độ giáo ở Indonesia, vì nhà nước Indonesia chỉ công nhận 6 hình thức tôn giáotức là Hồi giáo, Tin lành, Công giáo La Mã, Ấn Độ giáo, Phật giáo và Nho giáo tương ứng. Sự hợp nhất của Kaharedan với Ấn Độ giáo không phải do sự tương đồng trong hệ thống thần học, mà do thực tế rằng Kaharedan là niềm tin lâu đời nhất ở Kalimantan. Không giống như sự phát triển ở Kalimantan của Indonesia, Kaharedan không được công nhận là tôn giáo ở cả vùng Borneo và Brunei của Malaysia, do đó hệ thống tín ngưỡng Dayak truyền thống được biết đến như một hình thức của hoạt hình dân gian hoặc tín ngưỡng ngoại giáo ở phía bên kia biên giới Indonesia.

Nghiên cứu tốt nhất và vẫn còn vượt trội về tôn giáo Dayak truyền thống ở Kalimantan là nghiên cứu của Hans Scharer, Ngaju Tôn giáo: Quan niệm về Thiên Chúa giữa một dân tộc Nam Borneo; bản dịch của Rodney Needham (The Hague: Martinus Nijhoff, 1963). Việc thực hành Kaharedan khác nhau từ nhóm này sang nhóm khác, nhưng các pháp sư, chuyên gia trong chuyến bay ngây ngất đến các lĩnh vực khác, là trung tâm của tôn giáo Dayak, và phục vụ để kết hợp các cõi Thiên đường (thế giới thượng lưu) và trái đất, và thậm chí cả thế giới bên dưới, ví dụ, chữa lành bệnh cho người bệnh bằng cách lấy linh hồn của họ đang trên đường đến vùng đất chết của người chết, đồng hành và bảo vệ linh hồn của một người chết trên đường đến địa điểm thích hợp của họ ở thế giới Thượng, chủ trì đổi mới hàng năm và lễ hội tái sinh nông nghiệp,... Các nghi thức chết là công phu nhất khi một quý tộc (kamang) chết. Vào những dịp tôn giáo đặc biệt, tinh thần được cho là sẽ tham dự lễ kỷ niệm, một dấu hiệu của sự tôn vinh và tôn trọng quá khứ của tổ tiên và phước lành cho một tương lai thịnh vượng.

Xã hội và phong tục

thumb|Một điệu múa của dân tộc Dayak thumb|Cặp vợ chồng dân tộc Iban thumb|Đàn sapeh - linh hồn âm nhạc của dân tộc Dayak ở đảo Borneo Cộng đồng Dayak gồm hàng trăm sắc tộc khác nhau cư trú rải rác khắp đảo Borneo. Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp. Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới. Nam giới dân tộc Dayak thường ngày cởi trần đóng khố (tiếng Dayak là sirat), còn lễ hội họ sẽ đội mũ gắn lông chim và áo gilê thổ cẩm. Trang phục của phụ nữ Dayak thay đổi tùy theo vùng, nhưng đều là những bộ váy làm từ thổ cẩm được trang hoàng bằng những hoa văn rực rỡ. Họ đeo cả những chiếc mũ trang trí cầu kỳ vào những dịp đặc biệt. Phụ nữ Dayak thường căng dái tai mình bằng những chiếc vòng kim loại nặng.

Theo truyền thống, nhiều thế hệ dân tộc Dayak cùng sinh sống trong những căn nhà sàn có chiều dài hơn 50m, có sức chứa từ 30 – 40 gia đình và được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ. Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống. Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống. Về mặt nghệ thuật, người Dayak nổi tiếng với vũ điệu ngajat, lấy cảm hứng từ cuộc chiến của các chiến binh. Họ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Dayak** hoặc **Dyak** hoặc **Dayuh** là những dân tộc bản địa của Borneo. Đây là nhóm dân tộc với hơn 200 tiểu nhóm dân tộc sống ven sông và đồi, chủ yếu ở nội
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Người Nam Đảo** hay **người Austronesia** (tiếng Anh: _Austronesia_) là tên chỉ nhiều nhóm sắc tộc ở Đông Nam Á, Châu Đại Dương và Đông Phi nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo.
Các cuộc thảm sát và bất ổn dân sự ở Indonesia từ năm 1965 đến 1966 nhằm vào các thành viên và những người ủng hộ Đảng Cộng sản Indonesia (PKI), cũng như các nhóm
Thống tướng **Suharto** (8 tháng 6 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2008), chính tả cũ là **Soeharto**, là tổng thống thứ nhì của Indonesia, ông giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia trong
Có khoảng trên 300 dân tộc ở Indonesia. 95% trong số họ là người bản địa. Nhóm dân tộc đông nhất ở Indonesia là người Java (hay người Chà Và), chiếm 41% tổng số dân.
**Vương quốc Sarawak** (còn gọi là **Quốc gia Sarawak**; Hán-Việt: **Sa Lạp Việt** 砂拉越) là một lãnh thổ bảo hộ của Anh nằm tại phần tây bắc của đảo Borneo. Quốc gia này ban đầu
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
**Borneo** hay **Kalimantan** là đảo lớn thứ ba thế giới và lớn nhất tại châu Á. Đảo thuộc Đông Nam Á hải đảo, nằm về phía bắc của đảo Java, phía tây đảo Sulawesi và
**Johanes Chrisostomus Oevaang Oeray** (18 tháng 8 năm 1922 – 17 tháng 7 năm 1986) là chính trị gia người Indonesia. Ông là Thống đốc Tây Kalimantan từ năm 1960 đến năm 1966; ông là
**Sibu** () là thị trấn thủ phủ của huyện Sibu thuộc tỉnh Sibu, bang Sarawak, Malaysia. Thị trấn nội lục này nằm trên đảo Borneo, có diện tích là 129,5 km². Sibu nằm tại nơi hợp
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Nổi dậy cộng sản Sarawak** diễn ra tại Malaysia từ năm 1962 đến năm 1990, liên quan đến Đảng Cộng sản của vùng lãnh thổ xứ Bắc Kalimantan và Chính phủ Malaysia. Đây là một
nhỏ|Đông Malaysia nhỏ|Đảo [[Borneo]] **Đông Malaysia**, hay còn gọi là Borneo thuộc Malaysia, là phần lãnh thổ Malaysia nằm trên đảo Borneo. Khu vực này gồm hai bang là Sabah và Sarawak, cùng Lãnh thổ
**Tiếng Iban** _(jaku Iban)_ được nói bởi người Iban, một nhánh của người Dayak, trước đây gọi là "Dayak Biển" sống ở Malaysia (bang Sarawak), Indonesia (tỉnh Tây Kalimantan) và Brunei. Nó thuộc nhóm ngôn
**Bắc Borneo** () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
nhỏ|phải|Họa phẩm về hình ảnh quỷ ám (bóng đè) **Quỷ học** (Demonology) là môn nghiên cứu có phương pháp về ma quỷ hay tín ngưỡng về ma quỷ. Môn nghiên cứu này là một nhánh
**Lịch sử di truyền các dân tộc bản địa châu Mỹ** được chia thành hai giai đoạn chính: đầu tiên là làn sóng thiên di vào châu Mỹ của người cổ đại tầm 20.000-14.000 năm
**Đuông dừa**, **đuông chà là**, **mọt cọ đỏ**, **mọt cọ châu Á** (Asian palm weevil), **bọ Sago** hay **ấu trùng Sago** (danh pháp khoa học: _Rhynchophorus ferrugineus_) là một loài côn trùng trong họ bọ
**Đế quốc Brunei** (, Jawi và ('Iimbraturiat Brunay)), là một Hồi quốc Mã Lai tập trung ở Brunei trên bờ biển phía bắc đảo Borneo tại Đông Nam Á. Vương quốc được thành lập vào
**Vườn quốc gia Kayan Mentarang** là một vườn quốc gia bảo vệ những cánh rừng rậm rạp ở tỉnh Bắc Kalimantan, trên đảo Borneo, Indonesia. ## Địa lý Vườn quốc gia này nằm ở biên
**Harrison Ngau Laing** là nhà môi trường học và chính trị gia Malaysia, một thành viên của bộ tộc Dayak Kayan. Ông được trao tặng Giải Môi trường Goldman năm 1990 cho công việc của
**Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay)** là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của
**Ngữ hệ Nam Á** () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi khoảng 117
**Karolin Margret Natasa** (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1982) là một chính trị gia người Indonesia hiện đang phục vụ với tư cách là nhiếp chính huyện Landak. Trước đây, cô đã từng là
**Tây Kalimantan** (tiếng Indonesia: **Kalimantan Barat**, thường viết tắt là **Kalbar**) là một tỉnh của Indonesia ở Kalimantan - phần đảo Borneo thuộc Indonesia. Thủ phủ là Pontianak nằm ngay trên đường Xích đạo. Phía
nhỏ|phải|Tạo hình tượng trưng về sữa từ bầu vú người mẹ với **phản xạ tiết sữa** nhỏ| [[Mèo con được nuôi dưỡng ]] nhỏ| [[Chi Lợn|Lợn cho con mình bú ]] **Sự tiết sữa** mô
**Đông Kalimantan** (tiếng Indonesia: **Kalimantan Timur**, gọi và viết tắt là **Kaltim**), là một tỉnh của Indonesia. Đây là một trong 5 tỉnh nằm ở Kalimantan - phần lãnh thổ Indonesia phía Đông đảo Borneo.
**ISO 639-2:1998** - _Codes for the representation of names of languages — Part 2: Alpha-3 code_ - là phần hai của chuỗi tiêu chuẩn quốc tế ISO 639 do Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc
nhỏ|Một người đàn ông Dayak ở [[Indonesia đóng khố]] **Khố** là loại trang phục bao phủ bộ phận sinh dục và ít nhất một phần mông bằng cách quấn tựa vào vòng thắt lưng. ##
**Nhóm ngôn ngữ Đông Barito** là một nhóm gồm các ngôn ngữ Dayak thuộc ngữ hệ Nam Đảo, tại Borneo. Thành viên nổi tiếng nhất nhóm là tiếng Malagasy, ngôn ngữ quốc gia của Madagascar.