Ngô Hạp Lư (chữ Hán: 吳闔閭; trị vì: 514 TCN - 496 TCN), tên thật là Cơ Quang (姬光), là vị vua thứ 24 của nước Ngô - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Cơ Quang là con của Ngô vương Chư Phàn – vua thứ 20 nước Ngô và cháu đích của Ngô vương Thọ Mộng.
Sau khi Chư Phàn qua đời đã truyền ngôi cho các chú của Quang theo lời dặn của Thọ Mộng, muốn tuần tự tới người chú hiền tài nhất là Quý Trát.
Năm 527 TCN, chú thứ ba của Quang là Dư Muội qua đời. Quý Trát từ chối ngôi vua nên người nước Ngô lập con Dư Muội là Liêu lên nối ngôi vua.
Thời Ngô vương Liêu
Năm 526 TCN, công tử Quang nhận lệnh mang quân đánh nước Sở. Ông bại trận và bị quân Sở chiếm mất đất Vương Thuyên. Sợ tội, ông bí mật đánh úp quân Sở, giành lại đất cũ.
Năm 523 TCN, tướng nước Sở là Ngũ Viên bỏ trốn sang nước Ngô, được công tử Quang thu dụng.
Năm 520 TCN, Ngô Liêu lại sai công tử Quang đánh Sở. Lần này công tử Quang đánh bại quân Sở, nhân đó mang quân lên phía bắc đánh bại quân nước Trần và nước Sái rồi mới rút về.
Năm sau, Ngô Liêu lại sai công tử Quang mang quân đánh nước Sở, chiếm đất Cư Sào và đất Chung Ly.
Năm 516 TCN, Sở Bình vương mất, con thứ là Sở Chiêu vương lên thay. Năm sau, Ngô vương nhân lúc nước Sở có tang, bèn sai hai con là Yểm Dư và Chúc Dung mang quân đánh Sở, bao vây đất Lục Cao. Sở Chiêu vương điều quân chặn đứt đường về của Yểm Dư và Chúc Dung.
Đoạt ngôi vua
Công tử Quang nuôi ý định đoạt ngôi vua từ nhiều năm, do đó ông ngầm nuôi những người tâm phúc như Ngũ Tử Tư, Chuyên Chư.
Tháng 4 năm 515 TCN, nhân lúc các cánh quân chủ lực của Ngô vương Liêu bị mắc kẹt ở nước Sở, công tử Quang quyết định thực hiện ý định đoạt ngôi vua nước Ngô.
Ông mời Ngô vương Liêu đến dự tiệc rồi sai dũng sĩ Chuyên Chư hành thích. Vì vệ sĩ của Ngô Liêu cảnh giới rất nhiều, công tử Quang phải giả cách đau chân, bước vào nhà hầm trốn. Chuyên Chư giấu sẵn lưỡi dao trong bụng cá, khi bưng cá đến gần Ngô vương bèn rút dao ra bất ngờ đâm Ngô vương. Ngô vương chết tại chỗ, Chuyên Chư cũng bị các vệ sĩ của Ngô Liêu giết chết.
Công tử Quang giành ngôi báu, tức là Ngô Hạp Lư. Ngô Quý Trát đi sứ nước Tấn trở về tỏ ý thần phục.
Một người con khác của Ngô vương Liêu là Khánh Kỵ trốn thoát, tập hợp lực lượng chống lại Hạp Lư. Dũng sĩ Yêu Ly tình nguyện hy sinh cả nhà để nhận nhiệm vụ đi giết Khánh Kỵ: chấp nhận bị kết tội mưu phản, bị chặt cánh tay phải và vợ con bị chém rồi chạy tới chỗ Khánh Kỵ xin hàng làm Khánh Kỵ không nghi ngờ. Nhân lúc Khánh Kỵ mất cảnh giác, Yêu Ly dùng tay trái cầm giáo đâm chết Khánh Kỵ rồi tự sát. Lực lượng chống đối Hạp Lư trong nước bị dẹp.
Chiến tranh với nước Sở
Hai người con Ngô Liêu là Yểm Dư và Chúc Dung nghe tin trong nước Ngô có biến bèn hàng nước Sở và được Sở Chiêu vương phong cho ở đất Thư.
Năm 514 TCN, tướng nước Sở là Bá Châu Lê bị giết, con là Bá Hi chạy sang hàng nước Ngô, được Hạp Lư thu dụng.
Được sự tiến cử của Ngũ Viên, Hạp Lư có sự phục vụ của Tôn Vũ – nhà quân sự nổi tiếng thời Xuân Thu.
Năm 512 TCN, Hạp Lư cùng Ngũ Viên, Tôn Vũ và Bá Hi mang quân đánh nước Sở, diệt đất Thư, giết hai công tử Yểm Dư và Chúc Dung con của Ngô Liêu. Các tướng Sở bỏ chạy. Hạp Lư muốn tiến thẳng vào kinh đô Sính của nước Sở nhưng theo lời Tôn Vũ nên chưa đánh mà rút quân về.
Năm 511 TCN, Hạp Lư lại điều binh đánh Sở, chiếm đất Lục và đất Cao. Sang năm 510 TCN, quân Ngô lại đụng độ và đánh bại quân Sở.
Năm 509 TCN, Sở Chiêu vương sai Nang Ngõa và Tử Thường đánh Ngô để trả thù. Tôn Vũ mang quân đón đánh ở Dự Chương, phá tan quân Sở, thừa thắng tiến lên chiếm đất Cư Sào.
Năm 506 TCN, nhân lúc nước Đường và nước Sái oán hận nước Sở, Hạp Lư liên minh với hai nước này mang đại quân đánh Sở. Khi quân Ngô tiến đến sông Hán Thủy, quân Sở đón đánh. Em Hạp Lư là Phu Khái mang quân bản bộ đánh úp quân Sở. Quân Sở thua chạy.
Hạp Lư cùng Tôn Vũ và Ngũ Viên mang đại quân đánh đuổi. Hai bên giao chiến 5 trận lớn, quân Ngô đánh bại quân Sở cả năm lần, tiến đến Sính đô. Sở Chiêu vương bỏ chạy đến đất Viên. Quân Ngô chiếm Sính đô, Ngũ Viên đào mộ Sở Bình vương đã giết oan cha mình, quất lên xác để trả thù.
Năm 505 TCN, vua Việt là Doãn Thường nghe tin Hạp Lư đi đánh Sở bèn mang quân đánh Ngô. Hạp Lư phải điều quân về đón đánh quân Việt.
Trong lúc đó bầy tôi nước Sở là Thân Bao Tư cầu cứu nước Tần. Tần Ai công vốn là ông ngoại Sở Chiêu vương nên điều quân cứu Sở. Quân Tần và quân Ngô giao chiến, quân Ngô bị thua một trận. Công tử Phu Khái bèn bỏ trốn về nước Ngô, tự lập làm Ngô vương. Hạp Lư đành phải bỏ nước Sở, rút về đánh Phu Khái. Sở Chiêu vương khôi phục nước Sở.
Hạp Lư đánh bại Phu Khái và buộc Phu Khái phải chạy qua nước Sở.
Năm 504 TCN, Hạp Lư sai thái tử Phù Sai đánh nước Sở, chiếm đất Phiên. Sở Chiêu vương bị nước Ngô liên tục uy hiếp, sợ hãi phải dời bỏ Sính đô đi đóng đô ở đất Nhược.
Chiến tranh Ngô và Sở thời Ngô Hạp Lư tạm thời chấm dứt. Nước Ngô tuy không chiếm được nước Sở nhưng đã trở nên lớn mạnh, nước Sở suy yếu, bị mất vị thế trước đây.
Chiến tranh với Việt
Năm 510 TCN, quân Việt bại trận trước 3 vạn quân Ngô do Tôn Vũ chỉ huy, nuôi ý báo thù. Năm 496 TCN, Hạp Lư đi đánh nước Việt trả thù trận xâm lấn năm 505 TCN. Hai bên gặp nhau ở Huề Lý. Việt vương Câu Tiễn sai những người đi đầu hét lên và tự đâm cổ. Quân Ngô ngạc nhiên mải nhìn, bị quân Việt đánh úp đại bại.
Ngô Hạp Lư bị thương, quân Ngô phải rút lui 10 dặm. Biết mình không qua khỏi, Hạp Lư gọi cháu là Phù Sai lại dặn nhất định phải đánh Việt để báo thù.
Sau đó Hạp Lư qua đời, ở ngôi được 19 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Phù Sai lên nối ngôi vua.
Trong văn học
Ngô vương Hạp Lư là một nhân vật được đề cập trong tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc, xuất hiện từ hồi 73 đến hồi 79. Sự nghiệp của Hạp Lư từ khi nuôi chí giành ngôi báu tới khi tử trận khi đụng độ với nước Việt được mô tả sát thực với chính sử.
Tuy nhiên, về gia đình ông, Đông Chu liệt quốc có thông tin khác, theo đó Phù Sai không phải con trai mà là cháu nội của Hạp Lư. Con trai Hạp Lư là thế tử Ba - người sinh ra Phù Sai. Hạp Lư đã lấy con gái Tề Cảnh công cho thế tử Ba. Vì thế tử Ba chết trước Hạp Lư nên ngôi vua được truyền cho Phù Sai.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô Hạp Lư** (chữ Hán: 吳闔閭; trị vì: 514 TCN - 496 TCN), tên thật là **Cơ Quang** (姬光), là vị vua thứ 24 của nước Ngô - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu
**Ngô** (Phồn thể: 吳國; giản thể: 吴国), còn gọi là **Câu Ngô** (句吴) hay **Công Ngô** (工吴; 攻吾), là các tên gọi của một nước chư hầu của nhà Chu từ khi triều đại này
**Ngô Liêu** (chữ Hán: 吳僚; trị vì: 526 TCN-515 TCN), hay **Ngô vương Châu Ư**, **Ngô vương Liêu** (吳王僚), là vị vua thứ 23 của nước Ngô - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu
**Ngô Phù Sai** (; ? - 473 TCN) hay **Ngô vương Phù Sai** (吳王夫差), tên thật là **Cơ Phù Sai** (姬夫差), là vị vua thứ 25 của nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử
**Ngô Quý Trát** (chữ Hán: 吳季札, 576 TCN - 485 TCN) là công tử nước Ngô thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Từ chối ngôi vua Ông mang họ Cơ, là con
**_Ngô Việt Xuân Thu_** () là một bộ tạp sử do Triệu Diệp (赵晔) thời Đông Hán biên soạn và Hoàng Phủ Tuân thời Đường san định. Sách gồm mười quyển, kể lại những biến
**Phu Khái** (chữ Hán: 夫概) là con trai của Ngô Chư Phàn và là công tử nước Ngô thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia đánh Sở Năm 506 TCN, Lệnh
**Ngũ Tử Tư** (, ? - 484 TCN), tên thật là **Viên** (员), biểu tự **Tử Tư** (子胥), là một đại phu nước Sở, sau trở thành tướng quốc nước Ngô thời Xuân Thu trong
**Bá Phỉ** (, ? - 473 TCN), còn được phiên âm thành **Bá Bì** hay **Bá Hi**, là một viên quan nước Ngô trong lịch sử Trung Quốc, từng giữ đến chức Thái tể. ##
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Lư Tượng Thăng** (chữ Hán: 盧象昇, 1600 – 1638/1639), tên tự là **Kiến Đẩu**, hiệu là **Cửu Đài**, người huyện Nghi Hưng tỉnh Trực Lệ, nhân vật chính trị và tướng lĩnh nổi tiếng cuối
**Sở Chiêu vương** (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị **Hùng** (熊) tính **Mị** (芈), tên **Trân** (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở -
thumb|right **Tôn Vũ** (545 TCN - 470 TCN) () tên chữ là **Trường Khanh**, là một danh tướng kiệt xuất của nước Ngô ở cuối thời Xuân Thu, nhờ cuốn binh thư của mình mà
**Trận Tuy Lý** (檇李之戰) là cuộc chiến giữa hai nước Ngô và Việt ở cuối thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Bối cảnh Năm 496 TCN, Việt hầu Doãn Thường qua đời,
**Phạm Hạp** (范盍, 933-979) là một võ tướng thời Đinh, đồng thời cũng là một trong những vị quan trung thần của vua Đinh Tiên Hoàng. Ông là người làng Trà Hương, Nam Sách, Hải
**Doãn Thường** (chữ Hán: 允常; trị vì 538 TCN - 496 TCN), là tên của một vị vua nước Việt thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, theo Sử Ký Tư Mã Thiên -
**Trần Hoài công** (chữ Hán: 陳懷公; trị vì: 505 TCN-502 TCN), tên thật là **Quy Liễu** (媯柳), là vị vua thứ 25 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Âu Dã Tử** () là một thợ rèn kiếm Trung Quốc người nước Việt sống vào cuối thời Xuân Thu. Âu Dã Tử được coi là một trong những thợ rèn kiếm huyền thoại trong
**Chuyên Chư** (, ? - 515 TCN) là một người nước Ngô sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc. Chuyên Chư được người đời sau biết tới trong vai trò thích khách nổi
**Tấn Định công** (chữ Hán: 晉定公, cai trị: 511 TCN – 475 TCN), tên thật là **Cơ Ngọ** (姬午), là vị vua thứ 34 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tần Ai công** (chữ Hán: 秦哀公, trị vì 536 TCN-501 TCN), còn gọi là **Tần Tất công** (_秦毕公_), **Tần Bi công** (_秦㻫公_), **Tần Bách công** (_秦栢公_), là vị quân chủ thứ 19 của nước Tần
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] Đình Ném Đoài ở Khắc Niệm, Bắc Ninh **Nguyễn Thủ Tiệp** (; 908 - 967) hiệu _Nguyễn Lệnh công_ (阮令公) hoặc _Vũ Ninh vương_ (武宁王), là một thủ
**_Binh pháp Tôn Tử_** (giản thể: 兵圣, phồn thể: 兵聖, bính âm: _Bīng Shèng_, Hán Việt: Binh thánh) là bộ phim truyền hình Trung Quốc do Hoa Nghị huynh đệ và Trương Kỷ Trung hợp
**Trần** (Phồn thể: 陳國; giản thể: 陈国; phiên âm: _Trần quốc_) là một nước chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, quốc gia này tồn tại từ khi nhà Chu thành lập
**Yêu Ly** (要離) là một thích khách người nước Ngô đời thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Truyện về ông được chép trong Ngô Việt Xuân thu và tiểu thuyết _Đông Chu Liệt
**Trận Phù Tiêu** (夫椒之战) là cuộc chiến giữa hai nước Ngô và Việt ở cuối thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Bối cảnh Năm thứ 26 đời Chu Kính Vương (494 TCN),
nhỏ|phải|Sơ đồ kinh đô Hoa Lư nhỏ|phải|Những ngọn núi đá tự nhiên được các triều vua nối lại bằng tường thành nhân tạo **Cố đô Hoa Lư** (chữ Hán: 華閭) là kinh đô của Việt
**Can Tương** () và **Mạc Tà** () là tên của hai vợ chồng thợ rèn kiếm Trung Quốc cuối thời Xuân Thu ở nước Ngô. Cùng với thầy dạy nghề của họ là Âu Dã
**Kỵ** (chữ Hán: ; Wade–Giles: Chi; tiếng Quảng Đông: Kei) là một họ tại Trung Quốc. Trong_ Bách gia tính_, họ Kỵ nằm tại vị trí thứ 345. Hiện tại họ này không nằm trong
**Khánh Kỵ** (chữ Hán: 慶忌, phiên âm tiếng Anh: Qingji) hay còn được biết đến với tên **công tử Khánh Kỵ** là một nhân vật trong lịch sử Trung Quốc. Khánh Kỵ là con trưởng
Đao kiếm Nguyễn triều. Thi đấu kiếm **Kiếm**, **đao** hay **gươm** là một loại vũ khí lạnh thường dùng để đâm, chém trong tác chiến. Đao kiếm được chế tạo từ một thanh kim loại
**Sái Chiêu hầu** (chữ Hán: 蔡昭侯; trị vì: 518 TCN-491 TCN), tên thật là **Cơ Thân** (姬申), là vị vua thứ 21 của nước Sái – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Trần Mẫn công** (chữ Hán: 陳湣公; trị vì: 501 TCN-478 TCN), tên thật là **Quy Việt** (媯越), là vị vua thứ 26 và là vua cuối cùng của nước Trần – chư hầu nhà Chu
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Ba nhà chia Tấn** (chữ Hán: 三家分晋 _Tam gia phân Tấn_) là kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ nước Tấn – bá chủ chư hầu thời Xuân Thu
**Linh Cô Phù** (灵姑浮, ? - 494 TCN) là danh tướng nước Việt cuối thời Xuân Thu, ông giữ chức Đại tư mã. Linh Cô Phù chính là người đã giết Ngô vương Hạp Lư
thumb|[[Tề Hoàn công - một nhân vật cố định trong bất kì thuyết về _Ngũ bá_.]] **Ngũ Bá** (), đầy đủ là **Xuân Thu Ngũ bá** (春秋五霸) hoặc **Xuân Thu Ngũ Đại bá** (春秋五大霸), chỉ
**Loạn 12 sứ quân** (chữ Hán: 十二使君之亂, _Thập nhị sứ quân chi loạn_) là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô Quyền
**Giang Tô** (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là "Tô" (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh. Năm 2018,
thumb|right|Bản đồ Xuân Thu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên **Xuân Thu** (chữ Trung Quốc: 春秋时代; Hán Việt: _Xuân Thu thời đại_, bính âm: _Chūnqiū Shídài_) là một giai đoạn lịch sử từ 771
**Tô Châu** (; tên cổ: 吳-Ngô) là một thành phố với một lịch sử lâu đời nằm ở hạ lưu sông Trường Giang và trên bờ đông Thái Hồ thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Thân Bao Tư** () là một quan lại nước Sở, có công lớn nhất trong cuộc trung hưng Sở sau khi nước này bị người Ngô tàn phá. ## Tiểu sử Thân Bao Tư nguyên
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Phạm Bạch Hổ** (; 910 - ?? ) tên xưng **Phạm Phòng Át** (), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời
**12 sứ quân** là những vị thủ lĩnh chiếm giữ các vùng lãnh thổ để hình thành lên thời kỳ loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của họ được chép
**Đông Chu liệt quốc chí** (chữ Hán: 東周列國志) là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi được Sái Nguyên Phóng thời Thanh cải biên từ _Tân liệt quốc chí_ khoảng trên 700.000 chữ của Phùng
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân