✨Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994 là một mùa bão hoạt động mạnh, với sự xuất hiện của tổng cộng 41 xoáy thuận nhiệt đới trong năm. Mùa bão không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1994, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong khoảng giữa tháng 5 và tháng 11. Những cơn bão nhiệt đới hình thành ở khu vực phía Tây đường đổi ngày quốc tế và phía Bắc xích đạo được đặt tên bởi Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp JTWC . Tổ chức Khí tượng Thế giới chỉ định Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực cho các xoáy thuận nhiệt đới trong khu vực này là Cơ quan Khí tượng Nhật Bản JMA . Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc đi vào khu vực theo dõi của Philippines cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA . Đó là lý do khiến cho nhiều trường hợp, một cơn bão có hai tên gọi khác nhau.

Mùa bão bắt đầu vào ngày 4 tháng 1 với sự hình thành của áp thấp nhiệt đới 01W ở phía Tây của Yap, với cơn bão nhiệt đới đầu tiên của mùa bão xuất hiện ba tháng sau vào ngày 1 tháng 4, và kết thúc vào thời điểm gần cuối năm khi bão nhiệt đới Bobbie tan ngoài khơi Thái Bình Dương trong ngày 25 tháng 12. Trong suốt mùa bão, đã có 25 hệ thống bão đổ bộ hoặc đe dọa đến đất liền, khiến 2.400 người thiệt mạng. Cơn bão mạnh nhất trong năm là siêu bão Doug (vận tốc gió duy trì 1 phút lớn nhất), nó đã tác động đến Đài Loan, Hàn Quốc và đất liền Trung Quốc. Trong khi siêu bão Fred là cơn bão làm chết nhiều người nhất với 1.000 người tại Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu mùa bão; ảnh hưởng kết hợp của hai cơn bão nhiệt đới Russ và Sharon đã gây lũ lụt ở Trung Quốc khiến 1.400 người thiệt mạng. Mùa bão cũng đã chứng kiến hai cơn bão, Li và John, đi vào khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương từ phía Đông. Trong khi đó một cơn bão khác, bão nhiệt đới Yuri, hình thành từ một vùng thấp mà trước đó cũng đã vượt qua đường đổi ngày quốc tế. Trong mùa bão này, PAGASA đặt tên cho 25 xoáy thuận nhiệt đới và họ đã phải dử dụng một danh sách bổ sung để đặt tên cho một số xoáy thuận sau khi số lượng tên trong danh sách chính đã hết. Có ba trong số 25 xoáy thuận trên không được theo dõi bởi JTWC.

Tóm lược mùa bão

ImageSize = width:1025 height:231 PlotArea = top:10 bottom:80 right:20 left:20 Legend = columns:3 left:30 top:58 columnwidth:270 AlignBars = early

DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/01/1994 till:31/12/1994 TimeAxis = orientation:horizontal ScaleMinor = grid:black unit:month increment:1 start:01/01/1994

Colors = id:canvas value:gray(0.88) id:GP value:red id:TD value:rgb(0.38,0.73,1) legend:Áp_thấp_nhiệtđới=<62km/giờ(<39_dặm/giờ) id:TS value:rgb(0,0.98,0.96) legend:Bão_nhiệtđới=_63-88km/giờ(39-54_dặm/giờ) id:ST value:rgb(0.80,1,1) legend:Bão_nhiệt_đới_dữdội=_89-117km/giờ(55-73_dặm/giờ) id:C1 value:rgb(1,1,0.80) legend:Bão_cấp1=_119-153km/giờ(74-95_dặm/giờ) id:C2 value:rgb(1,0.91,0.46) legend:Bão_cấp2=_154-177km/giờ(96-110_dặm/giờ) id:C3 value:rgb(1,0.76,0.25) legend:Bão_cấp3=178-209-km/giờ(111-130_dặm/giờ) id:C4 value:rgb(1,0.56,0.13) legend:Bão_cấp4=_210-249km/giờ(131-155_dặm/giờ) id:C5 value:rgb(1,0.38,0.38) legend:Bão_cấp5=_≥250km/giờ(≥156_dặm/giờ)

Backgroundcolors = canvas:canvas

BarData = barset:Hurricane bar:Month

PlotData= barset:Hurricane width:10 align:left fontsize:S shift:(4,-4) anchor:till from:04/01/1994 till:06/01/1994 color:TD text:"Akang" from:31/03/1994 till:09/04/1994 color:ST text:"Owen" from:11/05/1994 till:17/05/1994 color:C2 text:"Page" from:23/05/1994 till:26/05/1994 color:TD text:"Deling" from:03/06/1994 till:09/06/1994 color:ST text:"Russ" from:21/06/1994 till:25/06/1994 color:TS text:"Sharon" from:02/07/1994 till:05/07/1994 color:TD text:"Heling" from:06/07/1994 till:12/07/1994 color:C4 text:"Tim" from:08/07/1994 till:11/07/1994 color:TS text:"Vanessa" from:14/07/1994 till:27/07/1994 color:C4 text:"Walt" barset:break from:18/07/1994 till:21/07/1994 color:TS text:"Yunya" from:18/07/1994 till:25/07/1994 color:ST text:"Zeke" from:25/07/1994 till:29/07/1994 color:TD text:"13W" from:03/08/1994 till:25/07/1994 color:TS text:"Brendan" from:25/07/1994 till:01/08/1994 color:TS text:"Amy" from:01/08/1994 till:06/08/1994 color:TS text:"Caitlin" from:01/08/1994 till:13/08/1994 color:C5 text:"Doug" from:06/08/1994 till:16/08/1994 color:C1 text:"Ellie" from:12/08/1994 till:18/08/1994 color:TS text:"Li" from:13/08/1994 till:23/08/1994 color:C4 text:"Fred" barset:break from:20/08/1994 till:04/09/1994 color:C3 text:"Gladys" from:24/08/1994 till:29/08/1994 color:TS text:"Harry" from:25/08/1994 till:04/09/1994 color:C1 text:"Ivy" from:11/08/1994 till:12/09/1994 color:C3 text:"John" from:29/08/1994 till:30/08/1994 color:TD text:"Tering" from:02/09/1994 till:08/09/1994 color:TS text:"Joel" from:04/09/1994 till:12/09/1994 color:C2 text:"Kinna" from:06/09/1994 till:14/09/1994 color:TS text:"Luke" from:10/09/1994 till:19/09/1994 color:C4 text:"Melissa" from:13/09/1994 till:14/09/1994 color:TD text:"Yaning" barset:break from:14/09/1994 till:22/09/1994 color:TS text:"Nat" from:17/09/1994 till:30/09/1994 color:C4 text:"Orchid" from:20/09/1994 till:29/09/1994 color:C2 text:"Pat" from:23/09/1994 till:28/09/1994 color:TS text:"Ruth" from:28/09/1994 till:04/10/1994 color:TD text:"31W" from:02/10/1994 till:12/10/1994 color:C4 text:"Seth" from:15/10/1994 till:01/11/1994 color:C4 text:"Verne" from:16/10/1994 till:26/10/1994 color:C1 text:"Teresa" from:19/10/1994 till:01/11/1994 color:C4 text:"Wilda" from:22/10/1994 till:27/10/1994 color:TS text:"Yuri" barset:break from:26/10/1994 till:07/11/1994 color:C4 text:"Zelda" from:12/12/1994 till:27/12/1994 color:C4 text:"Axel" from:16/12/1994 till:26/12/1994 color:ST text:"Bobbie" barset:skip bar:Month width:5 align:center fontsize:S shift:(0,-20) anchor:middle color:canvas

from:01/01/1994 till:31/01/1994 text:Tháng 1 from:01/02/1994 till:28/02/1994 text:Tháng 2 from:01/03/1994 till:31/03/1994 text:Tháng 3 from:01/04/1994 till:30/04/1994 text:Tháng 4 from:01/05/1994 till:31/05/1994 text:Tháng 5 from:01/06/1994 till:30/06/1994 text:Tháng 6 from:01/07/1994 till:31/07/1994 text:Tháng 7 from:01/08/1994 till:31/08/1994 text:Tháng 8 from:01/09/1994 till:30/09/1994 text:Tháng 9 from:01/10/1994 till:31/10/1994 text:Tháng 10 from:01/11/1994 till:30/11/1994 text:Tháng 11 from:01/12/1994 till:31/12/1994 text:Tháng 12

Đây là 41 xoáy thuận nhiệt đới trong năm 1994 ở Tây Bắc Thái Bình Dương, 39 trong số đó hình thành trên khu vực này và có hai cơn bão, bão nhiệt đới Li và bão John, hình thành trên vùng Đông Bắc Thái Bình Dương (phía Đông kinh tuyến 140° Tây), vượt đường đổi ngày quốc tế đi vào khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Có 34 trong số 39 xoáy thuận đã trở thành những cơn bão nhiệt đới và được đặt tên, và 17 trong số chúng đã trở thành những cơn bão cuồng phong. Mùa bão bắt đầu vào ngày 4 tháng 1 với sự hình thành của áp thấp nhiệt đới 01W ở phía Tây của Yap, với cơn bão nhiệt đới đầu tiên của mùa bão xuất hiện ba tháng sau vào ngày 1 tháng 4, và kết thúc vào thời điểm gần cuối năm khi bão nhiệt đới Bobbie tan ngoài khơi Thái Bình Dương trong ngày 25 tháng 12.

Trong mùa bão 1994, có tất cả 25 hệ thống đã đổ bộ hoặc đe dọa đến đất liền, 8 trong số đó tấn công Philippines, 8 đổ bộ vào Trung Quốc, 6 đổ bộ Việt Nam, 3 tấn công Đài Loan và Trung Quốc, với tổng cộng 2.400 người thiệt mạng. Tại Hong Kong, 28% lượng mưa nhận được trong năm là từ các xoáy thuận nhiệt đới, lớn hơn so với trung bình hàng năm.

Các cơn bão

Áp thấp nhiệt đới Akang

Áp thấp nhiệt đới đầu tiên trong năm được quan trắc lần đầu vào ngày 1 tháng 1 khi nó là một vùng mây kém tổ chức, nằm trong một rãnh thấp trên khu vực gần quần đảo Caroline. Sau đó hệ thống di chuyển theo hướng Bắc - Tây Bắc với mây đối lưu xung quanh dần tổ chức hơn. Nhờ đó cùng với việc một trạm thời tiết tại Chuuk báo cáo vận tốc gió đạt 35 dặm/giờ (55 km/giờ) đã thúc đẩy JTWC ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" (TCFA) trong ngày 2 tháng 1. Áp thấp nhiệt đới cũng đã gây ra lũ lớn ở Philippines. Tổng cộng đã có ít nhất 16.000 người đã phải di tản đến những nơi trú ẩn do chính phủ điều hành trong và sau cơn bão. Trong khi đó, JMA đã phân loại nó là một cơn bão nhiệt đới, số hiệu 9401. khi nó ở vị trí cách Yap 260 dặm (420 km) về phía Tây - Tây Bắc. Đã có ít nhất 10 người thiệt mạng, 5 người khác mất tích, và 14 ngư dân bị lo ngại là đã chết đuối. Tổng cộng có 33 người bị thương và hơn 9.000 hộ dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão. Vận tốc gió lớn nhất đo được ở Yonaguni là 32,4 km/giờ.

Bão Page (Klaring)

Vào ngày 8 tháng 5, một vùng rộng lớn mây đối lưu dày đặc kết hợp với một rãnh thấp gần xích đạo được ghi nhận trên khu vực Đông quần đảo Caroline. Sáng hôm sau, ảnh vệ tinh trực tiếp cho thấy vùng mây đối lưu kết hợp với hệ thống đã có tổ chức hơn, và tín hiệu báo cáo từ các phao trên biển xác nhận tâm hoàn lưu mực thấp đã xuất hiện ở vị trí có tọa độ khoảng 5°B 153°Đ. Một quá trình phát triển chậm diễn ra sau đó, và hệ thống này được JTWC nâng cấp thành áp thấp nhiệt đới vào ngày 12 tháng 5. khi nó nằm trên khu vực cách Yap 310 dặm (510 km) về phía Bắc, Tại núi Tsukuba, vận tốc gió tối đa ghi lại được là 58 km/giờ.

Áp thấp nhiệt đới 04W (Deling)

Ngày 14 tháng 5, một vùng đối lưu sâu gắn kết với một hoàn lưu yếu đã được đề cập trong "Thông báo Thời tiết Nhiệt đới Quan trọng" của JTWC vào lúc 0600 UTC. Trong năm ngày tiếp theo, hoàn lưu yếu này di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc, hướng đến Guam, sau đó nó chuyển hướng Tây - Tây Nam. Tuy nhiên mây đối lưu đã không thể tập hợp gần trung tâm trong khoảng thời gian này. Sau khi di chuyển qua khu vực gần Palau trong ngày 21 tháng 5, nó chuyển hướng Tây Bắc, đi vào vùng biển Philippines và được PAGASA đặt tên là Deling vào sáng sớm ngày 23 tháng 5, giờ địa phương. Không lâu sau, ảnh sóng cảm biến đặc biệt đã chỉ ra sự xuất hiện của tâm hoàn lưu mực thấp rõ ràng, và những bức ảnh vệ tinh trực tiếp cũng như hồng ngoại cho thấy hệ thống đang ngày một tổ chức hơn với việc đối lưu sâu đã hợp nhất gần trung tâm. Do đó, một "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" đã được JTWC ban hành vào lúc 0600 UTC. Đối lưu sâu phía trên hoàn lưu trung tâm nhanh chóng được tăng cường, và Đài Quan sát Hong Kong đã tuyên bố đó là một áp thấp nhiệt đới trong ngày mùng 3 khi nó cách Hong Kong khoảng 180 dặm (290 km) về phía Nam. và Russ đã đi qua ngay sát phía Nam quần đảo Đông Sa trong đêm hôm đó.

Bão nhiệt đới Sharon (Gading) (bão số 3)

Vào khoảng giữa tháng 6, không lâu sau khi bão nhiệt đới Russ đổ bộ lên đất liền Trung Quốc, một vùng mây đối lưu nằm trong một rãnh thấp gần xích đạo bắt đầu tập hợp lại trên khu vực phía Nam Chuuk. Trong ngày 20 tháng 6, hệ thống này di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc và đã bắt đầu có tổ chức. Nó mạnh lên thành một áp thấp nhiệt đới vào ngày 21, sau đó quá trình tăng cường độ dừng lại do độ đứt gió thẳng đứng ở mức không thuận lợi. Giai đoạn suy yếu tiếp theo đã dẫn đến sự tan biến của áp thấp nhiệt đới vào ngày 22 tháng 6.

PAGASA đã đặt tên hệ thống là Gading khi nó ở gần Philippines. 12 giờ sau khi cảnh báo cuối cùng được ban hành, mây đối lưu một lần nữa xuất hiện trở lại, và một cảnh báo mới lại được phát đi. Những cảnh báo đầu tiên được đưa ra vào lúc 0000 UTC ngày 3 tháng 7 Di chuyển theo hướng Tây Bắc, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên thành bão nhiệt đới khi nó tiếp cận kinh tuyến 130°Đ trong sáng ngày mùng 8. Vào cuối ngày 10 tháng 7, Tim tấn công Đài Loan, đổ bộ cách thủ đô Đài Bắc khoảng 120 dặm (200 km) về phía Nam và gây gió giật tới 181 km/giờ tại Chengkung

Bão nhiệt đới Vanessa (Loleng) (bão số 4)

Khi Tim đang phát triển trên biển Philippines, một vùng nhiễu động nhiệt đới cũng bắt đầu phát triển trên Biển Đông. Vào cuối ngày 8 tháng 7, nó trở thành một áp thấp nhiệt đới. Đến hôm sau, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên, và cả JTWC lẫn JMA đều phân loại hệ thống là một cơn bão nhiệt đới vào sáng sớm ngày mùng 9.

Vanessa đã đi một vòng ngược chiều kim đồng hồ và sau đó nó bắt đầu di chuyển về hướng Đông Bắc dưới sự ảnh hưởng của một luồng gió mùa kết hợp với hoàn lưu của cơn bão Tim. Nó đạt đỉnh với vận tốc gió 83 km/giờ ở phía Tây Luzon trước khi bị hấp thụ bởi cơn bão lớn hơn - Tim. Cảnh báo cuối cùng được ban hành vào ngày 11 tháng 7 sau khi xác định rằng hoàn lưu mực thấp của Vanessa đã bị hấp thụ.

Bão nhiệt đới Yunya (Norming)

Vào ngày 16 tháng 7, một vùng nhiễu động trên Biển Đông thuộc một rãnh gió mùa nghịch đã được đề cập đến lần đầu bởi JTWC. Một hoàn lưu mực thấp yếu đã được xác định thông qua ảnh vệ tinh động và dữ liệu tóm tắt trong sáng sớm hôm đó. Di chuyển theo hướng Đông - Đông Bắc, hệ thống mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới 11W vào ngày 18.

Áp thấp nhiệt đới 13W

Áp thấp nhiệt đới 13W là xoáy thuận nhiệt đới có thời gian tồn tại ngắn nhất của mùa bão, khi mà JTWC chỉ ban hành có 4 cảnh báo về nó. 13W hình thành vào ngày 25 tháng 7 trong sự kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động tăng cường,

Bão nhiệt đới Brendan (Oyang)

Một vùng nhiễu động nhiệt đới đã phát triển ở vùng biển Philippines vào ngày 26 tháng 7. Hệ thống này di chuyển chậm theo hướng Tây Bắc trong vài ngày tiếp theo. Gió mùa Tây Nam tăng cường khiến vùng nhiễu động chuyển hướng lên phía Bắc, và nó trở thành một áp thấp nhiệt đới vào sáng ngày 29. Sau đó áp thấp nhiệt đới tiếp tục tăng tốc về phía Bắc, mạnh lên thành bão nhiệt đới ngay trước khi đổ bộ vào khu vực Okinawa. Brendan đạt đỉnh ở phía Nam đảo Jeju, Hàn Quốc với cường độ một cơn bão nhiệt đới trung bình. Sau đó cơn bão vòng lại ở trên biển Hoàng Hải, vượt qua Hàn Quốc khi nó đang trong quá trình chuyển đổi thành một hệ thống ngoài nhiệt đới, với các đặc điểm của một xoáy thuận cận nhiệt đới. Cuối cùng nó đã chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới và tăng cường trở lại trong lúc nó đang di chuyển qua vùng biển Nhật Bản. Cơn bão làm 2 người chết ở Hàn Quốc. Lượng mưa lên tới 200 mm ở bán đảo Triều Tiên đã góp phần cải thiện tình hình khô hạn ở khu vực này. Trong khi đó, JMA báo cáo rằng đó là bão nhiệt đới 9410 đã hình thành vào sáng sớm ngày 29 trên vịnh Bắc Bộ, phía Tây đảo Hải Nam.

Bão Doug (Ritang)

Đoạn cuối phía Đông của một rãnh gió mùa đã phát triển thành một áp thấp nhiệt đới vào ngày 30 tháng 7. Hệ thống di chuyển về phía Tây, mạnh dần lên thành một cơn bão nhiệt đới trong ngày 2 tháng 8 và trở thành một cơn bão cuồng phong trong ngày mùng 3. Sau đó, Doug di chuyển nhiều hơn về hướng Tây Bắc, và nhanh chóng tăng cường trong khoảng thời gian từ ngày mùng 4 đến ngày mùng 5, trở thành một siêu bão cấp 5 với vận tốc gió 160 dặm/giờ. Nó đã suy yếu đi một chút, vận tốc gió giảm xuống 145 dặm/giờ trước khi đi sượt qua vùng bờ biển phía Đông Đài Loan trong ngày mùng 7. Đến ngày mùng 10, nó đã suy yếu xuống còn là bão nhiệt đới. Sau đó một áp cao ở phía Bắc đẩy cơn bão di chuyển về phía Tây - Tây Nam, và Doug tan trong đất liền Trung Quốc vào ngày 13. Tổng cộng có 26 người thiệt mạng,

Bão Ellie

Một vùng nhiễu động nhiệt đới đã hình thành ở khu vực cách Nhật Bản 560 dặm (900 km) về phía Đông Nam trong ngày 2 tháng 8. Hệ thống này trôi dạt về phía Nam và dần phát triển chậm. Sau đó hệ thống chuyển hướng Tây - Tây Nam, mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong trong ngày mùng 9 khi mà một mắt bão lớn đã được hình thành. Tiếp theo, nó đã dừng lại và ít di chuyển. Đến ngày mùng 10, cơn bão chuyển hướng về phía Tây - Tây Bắc với tốc độ di chuyển trung bình. Ellie đã đi qua khu vực ngoài khơi cách Kyushu (81 dặm) 130 km về phía Nam trong ngày 13. Vào ngày 14, cơn bão chuyển hướng Bắc, đi sát bờ biển phía Đông Trung Quốc trước khi đổ bộ vào khu vực thuộc vùng Đông Bắc nước này với cường độ là một cơn bão nhiệt đới trong ngày 16. Trong vài ngày tiếp theo khi Li di chuyển theo hướng Tây Bắc hướng tới đảo Wake, nó đã suy yếu đều đặn do chịu sự ảnh hưởng từ gió Tây trên cao mạnh. Hệ thống được ghi nhận lần cuối cùng vào ngày 18, trước khi nó tan biến ngoài khơi Thái Bình Dương.

Bão nhiệt đới Hary (bão số 6)

Mây dông phát triển trong một rãnh gió mùa cách Guam 289 dặm (465 km) về phía Tây Nam, hệ thống này sau đó di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc, hướng đi chủ yếu trong suốt quãng thời gian tồn tại của nó. Sau khi vượt qua vùng cực Bắc Luzon, nó đã trở thành một áp thấp nhiệt đới vào cuối ngày 25 tháng 8 và là bão nhiệt đới trong ngày 26. Vào sáng ngày 27, cơn bão đi qua khu vực phía Nam Hong Kong, gây ra gió giật 104 km/giờ tại đảo Waglan và 141 km/giờ tại Tai Mo Shen thuộc Hong Kong.

Bão nhiệt đới Joel (bão số 7)

Một vùng mây đối lưu cố định nằm trong một rãnh gió mùa trên Biển Đông trong ngày 30 tháng 8. Ban đầu, vùng nhiễu động di chuyển theo hướng Đông - Đông Bắc, nhưng sau đó nó đã chuyển hướng Tây - Tây Bắc trong ngày 2 tháng 9. Đến ngày mùng 3, hệ thống này đã có tổ chức hơn, trở thành áp thấp nhiệt đới 23W.

Trong sáng ngày 5 tháng 9, gió trên tầng cao đã tác động đến đối lưu sâu ở phần phía Bắc của áp thấp nhiệt đới, dẫn đến sự suy yếu hoàn lưu trung tâm của nó. Tuy nhiên, mây đối lưu sau đó đã bao bọc lại xung quanh phần phía Bắc của hệ thống. Và do đó, áp thấp nhiệt đới đã được nâng cấp thành bão nhiệt đới với cái tên Joel. Vào ngày 27, hệ thống này vượt đường đổi ngày quốc tế, và mây đối lưu vẫn được duy trì. Nó dần có tổ chức hơn và mặc dù thiếu đối lưu sâu, hệ thống vẫn được công nhận là một áp thấp nhiệt đới vào ngày hôm sau. Hệ thống này được ghi nhận lần đầu trong ngày 15 tháng 10, khi nó là một vùng nhiễu động nhiệt đới ở cách quần đảo Mariana khoảng 340 dặm (550 km) về phía Đông. Sau đó nó di chuyển về phía Tây và đi qua khu vực cách Guam về phía Bắc, gần Saipan vào lúc khoảng 0600 UTC ngày 16 tháng 10. Cùng ngày, JMA cũng đã nâng cấp hệ thống thành bão nhiệt đới 9433 vào lúc 1200 UTC.

Bão Zelda (Esang)

Đoạn cuối phía Đông Bắc của một rãnh gió mùa đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới 37W trong ngày 25 tháng 10 trên khu vực vĩ độ cận nhiệt đới. Hệ thống di chuyển về phía Đông Nam, rồi chuyển thành Tây Nam, trở thành một cơn bão nhiệt đới vào ngày 29. Zelda sau đó tiếp tục tăng cường chậm, và nó đã trở thành một cơn bão cuồng phong vào ngày 1 tháng 11 khi dần chuyển hướng về phía Tây. Tiếp tục đi vòng theo chiều kim đồng hồ, Zelda vòng lại phía Tây Bắc, khi đó nó đã đi qua quần đảo Bắc Mariana. Trong ngày mùng 3 cơn bão đã mạnh lên nhanh chóng thành một siêu bão có vận tốc gió 250 km/giờ. Đến ngày mùng 8, khi đã chuyển hướng Đông Bắc, Zelda suy yếu thành một cơn bão nhiệt đới. Vào ngày mùng 10, cơn bão tan biến, trên một khu vực chỉ cách vị trí xuất phát ban đầu khoảng 1.100 dặm (1700 km), sau khi nó đã di chuyển một quãng đường lên tới cả vài ngàn dặm.

Số hiệu tại Việt Nam

Ở Việt Nam một cơn bão (đạt cường độ bão nhiệt đới trở lên) sẽ được đặt số hiệu khi nó đi vào khu vực thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam được xác định trên Biển Đông phía Tây kinh tuyến 120°Đ và phía Bắc vĩ tuyến 10°B. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm.

Dưới đây là các cơn bão được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam đặt số hiệu trong năm 1994: (Kèm vùng đổ bộ)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994 **là một mùa bão hoạt động mạnh, với sự xuất hiện của tổng cộng 41 xoáy thuận nhiệt đới trong năm. Mùa bão không có giới hạn
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2018** là một mùa bão hoạt động mạnh có tất cả 29 cơn bão (bao gồm 1 cơn bão từ Trung tâm Thái Bình Dương di chuyển sang),
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1993** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1993, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1991** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1991, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2017** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2017, chủ
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2019, chủ
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1998** không có giới hạn chính thức, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong khoảng
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1995** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1995, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 2015** được công nhận là mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương hoạt động mạnh thứ hai từng được ghi nhận; với kỷ lục 31 áp thấp nhiệt
**Bão Doug**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Bão Ritang**, là cơn bão cấp 5 duy nhất của mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994. Là cơn bão thứ 13 được đặt
**Siêu bão Fred**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Bão Susang**, là một xoáy thuận nhiệt đới mạnh đã đổ bộ vào Trung Quốc trong mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1994
thumb|Quỹ đạo của tất cả các xoáy thuận nhiệt đới Đông Bắc Thái Bình Dương cấp 5 trên khu vực phía Đông [[đường đổi ngày quốc tế tính đến thời điểm kết thúc năm 2018.]]
**Bão Gay** là cơn bão mạnh nhất và có quãng thời gian hoạt động dài nhất của mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1992. Gay hình thành vào ngày 14 tháng 11 trên khu
**Bão John** (**Hurricane John**, còn được biết đến như là **Typhoon John**) là một cơn bão hình thành trong năm 1994 trên khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương và nó đã trở thành xoáy
**Bão Walaka** (/ wɑːlɑːkɑː / ua-la-ka; Hawaiian: ʻwalaka có nghĩa là "người cai trị quân đội") là một trong những cơn bão mạnh nhất ở Thái Bình Dương. Với áp lực tối thiểu, Walaka là
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
Đường đổi ngày quốc tế **Đường đổi ngày quốc tế**, hay **đường thay đổi ngày quốc tế**, là một đường tưởng tượng dùng để làm ranh giới giữa múi giờ UTC+14 và UTC-12, đi gần
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
**Sông Columbia** (còn được biết đến là **Wimahl** hay **sông Big** (sông lớn) đối với người Mỹ bản địa nói tiếng Chinook sống trên những khu vực thấp nhất gần dòng sông) là con sông
**Đài Phát thanh – Truyền hình Bình Dương** là một đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đài có trụ sở tại số 46 Đại
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
**Vanuatu**, tên chính thức **Cộng hòa Vanuatu**, là đảo quốc gồm quần đảo vùng Melanesia, tây nam Thái Bình Dương. Quần đảo này nằm phía đông Úc cách 1.750 km, phía đông bắc Nouvelle-Calédonie cách
thumb|Đường đi của xoáy thuận nhiệt đới toàn cầu từ năm 1985 đến năm 2005, chỉ ra các khu vực mà xoáy thuận nhiệt đới thường phát triển **Sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới**
**Rác thải biển** là chất thải do con người tạo ra đã cố ý hoặc vô tình được thải ra biển hoặc đại dương. Rác thải nổi trên đại dương có xu hướng tích tụ
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
**Palau** (, phiên âm: _"Pa-lao"_, còn được viết là **Belau**, **Palaos** hoặc **Pelew**), tên chính thức là **Cộng hòa Palau** (, ), là một đảo quốc ở Tây Thái Bình Dương. Nước này bao gồm
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
thumb|230x230px|Bão Yagi (bão số 3 năm 2024), cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Việt Nam trong 70 năm qua, gây sức gió tại Bãi Cháy là 45m/s (cấp 14) giật 62m/s (trên cấp 17)
**Kiribati** (phiên âm: _Ki-ri-bát_, ), tên chính thức là **Cộng hòa Kiribati** (tiếng Gilbert: _Ribaberiki Kiribati_),, là một quốc đảo có khí hậu nhiệt đới nằm ở vùng trung tâm Thái Bình Dương. Nước này
**Đường sắt Nhà nước Triều Tiên** (조선민주주의인민공화국 철도성, _ Chosŏn Minjujuŭi Inmin Konghwaguk Ch'ŏldo_, thường được gọi là 국철, _Kukch'ŏl_, "State Rail") là bộ phận điều hành của Bộ Đường sắt Bắc Triều Tiên và
**Báo Ấp Bắc và Đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang** (tiếng Anh: **Ap Bac Newspaper and Tien Giang Radio - Television Station**), là cơ quan báo chí - truyền thông trực thuộc tỉnh
**San hô đen**, còn gọi là **san hô gai** hay **Antipatharia**, là một bộ san hô nước sâu mềm. Những loài san hô thuộc bộ này có thể được nhận biết bởi bộ xương kitin
**Chiết Giang ** (浙江) là một tỉnh ven biển phía đông của Trung Quốc. Tên gọi Chiết Giang lấy theo tên cũ của con sông Tiền Đường chảy qua Hàng Châu - tỉnh lị Chiết
thế=|200x200px
Trạng thái bình thường Thái Bình Dương: gió xích đạo đem nước ấm thổi hướng về phía tây, nước lạnh vọt ra lên trên ở
thumb|[[Bão Maysak (2015)|Bão Maysak nhìn từ Trạm Vũ trụ Quốc tế. Mắt bão, thành mắt bão, dải mây mưa bao quanh, những nét đặc trưng của một xoáy thuận nhiệt đới, có thể quan sát
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**México** ( , phiên âm: "Mê-hi-cô", tiếng Nahuatl: _Mēxihco_), cũng thường viết không dấu là **Mexico**, tên chính thức là **Hợp chúng quốc México** (, ), là một nước cộng hòa liên bang thuộc khu
**Hòa Bình** là một tỉnh cũ miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam. Tỉnh Hòa Bình có diện tích lớn thứ 29 trong 63 tỉnh thành của Việt Nam và là đơn vị
**Seattle** (, ) là một thành phố cảng biển tọa lạc ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Thành phố này nằm ở phía tây tiểu bang Washington trên một dải đất
**Bến Cát** là một thành phố cũ nằm ở trung tâm tỉnh Bình Dương, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Bến Cát nằm ở trung tâm tỉnh Bình Dương, nằm trong khu vực kinh
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
nhỏ|phải|Vị trí vùng Bắc Trung Bộ trên bản đồ Việt Nam **Bắc Trung Bộ** là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam từ Thanh Hóa tới phía bắc Đèo Hải Vân. Vùng Bắc Trung
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Nạn đói tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên**, **Nạn đói tại Bắc Triều Tiên** (tiếng Triều Tiên: 조선기근) hay còn được gọi là **Hành quân gian khổ**, **Hành quân khổ nạn** (고난의
thumb|Bản đồ mạng đường sắt với các đường thông thường được nâng cấp hoặc xây dựng để phù hợp với CRH được hiển thị bằng màu cam (), đường cao tốc thứ cấp màu xanh
**Bình Nhưỡng** (, , , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nằm ở hai bên bờ sông Đại Đồng. Theo kết quả điều
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê