✨Mariner 10

Mariner 10

Mariner 10 là một tàu thăm dò không gian không người lái của Mỹ do NASA phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, bay ngang qua Sao Thủy và Sao Kim.

Mariner 10 được phóng sau Mariner 9 khoảng hai năm và là tàu vũ trụ cuối cùng trong chương trình Mariner (Mariner 11Mariner 12 được sử dụng cho chương trình Voyager và được đổi tên thành Voyager 1Voyager 2).

Mục tiêu chính của sứ mệnh là đo đạc môi trường, khí quyển, bề mặt và các đặc điểm khác của Sao Thủy, và các nghiên cứu tương tự với Sao Kim.

Thiết kế và quỹ đạo

nhỏ|200x200px|trái|Tàu thăm dò Mariner 10. thumb|Dữ liệu Mariner 10 được xử lý để tạo ra hình ảnh Sao Thủy. Khu vực trơn là khu vực không có hình ảnh nào được chụp.

Mariner 10 là tàu vũ trụ đầu tiên sử dụng hỗ trợ hấp dẫn (bởi Sao Kim) để bẻ cong đường bay của tàu và đưa điểm cận nhật của tàu xuống ngang với quỹ đạo của Sao Thủy.

Việc bay ngang qua (flyby) Sao Thủy đã đặt ra những thách thức kỹ thuật lớn đối với các nhà khoa học. Do Sao Thủy ở gần Mặt Trời, Mariner 10 sẽ phải chịu bức xạ Mặt Trời lớn gấp 4,5 lần so với lúc nó rời Trái Đất; so với các nhiệm vụ Mariner trước đây, các bộ phận của tàu vũ trụ cần được che chắn thêm để chống nóng. Màn chắn nhiệt và tấm che nắng được lắp đặt trên thân chính. Tuy nhiên, việc che chắn sức nóng từ Mặt Trời là không khả thi đối với một số bộ phận khác của Mariner 10. Hai tấm pin Mặt Trời của Mariner 10 cần được giữ ở nhiệt độ dưới , tuy nhiên, nếu che chắn cho các tấm pin thì sẽ gây trở ngại cho việc sản xuất điện cho tàu. Giải pháp được đưa ra là điều chỉnh độ nghiêng của các tấm pin để thay đổi góc mà chúng đối diện với Mặt Trời. Các kỹ sư đã cân nhắc việc chỉnh độ nghiêng của các tấm về phía nhau, tạo thành hình chữ V, nhưng các thử nghiệm cho thấy phương pháp này có khả năng làm các bộ phận còn lại của tàu trở nên quá nóng. Phương án thay thế được chọn là lắp các tấm pin Mặt Trời thành một hàng và nghiêng chúng dọc theo trục đó, điều này giúp làm tăng hiệu quả của động cơ đẩy phản lực nitơ của Mariner 10. Các tấm có thể xoay tối đa 76°.

Các thành phần trên Mariner 10 có thể được phân loại thành bốn nhóm dựa trên chức năng chung của chúng. Các tấm pin Mặt Trời, hệ thống phụ năng lượng, hệ thống phụ điều khiển định hướng và máy tính để giữ cho tàu vũ trụ hoạt động bình thường trong suốt chuyến bay. Hệ thống định vị, bao gồm cả tên lửa hydrazin, sẽ giúp Mariner 10 đi đúng hướng tới Sao Kim và Sao Thủy. Một số công cụ khoa học sẽ thu thập dữ liệu tại hai hành tinh. Cuối cùng, các ăngten sẽ truyền dữ liệu này đến Mạng lưới giám sát Không gian Sâu trên Trái Đất, cũng như nhận lệnh từ Trung tâm điều khiển sứ mệnh. Các thành phần và dụng cụ khoa học khác nhau của Mariner 10 được gắn vào một trục trung tâm, có hình dạng gần giống một lăng kính bát giác.

Tàu vũ trụ Mariner 10 được Boeing sản xuất. NASA đặt ra giới hạn cho tổng chi phí của Mariner 10 là 98 triệu đô la Mỹ, điều này đánh dấu lần đầu tiên cơ quan này ràng buộc ngân sách đối với một nhiệm vụ. Vì vậy, các nhà hoạch định sứ mệnh đã cân nhắc cẩn thận chi phí khi thiết kế các thiết bị của tàu vũ trụ, và kết thúc dư ngân sách khoảng 1 triệu đô la Mỹ.

Thiết bị

thumb|right|Hình minh họa các thiết bị của Mariner 10.

Mariner 10 đã tiến hành bảy thí nghiệm tại Sao Kim và Sao Thủy. Sáu trong số các thí nghiệm này có một thiết bị khoa học chuyên dụng để thu thập dữ liệu. Các thí nghiệm và thiết bị được các phòng thí nghiệm nghiên cứu và tổ chức giáo dục trên khắp Hoa Kỳ thiết kế. Trong số 46 đề xuất, JPL đã chọn ra bảy thí nghiệm trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận khoa học mà không vượt quá quy định về chi phí: bảy thí nghiệm khoa học tiêu tốn 12,6 triệu đô la Mỹ, khoảng một phần tám tổng ngân sách nhiệm vụ.

Radiometer hồng ngoại

Radiometer hồng ngoại phát hiện bức xạ hồng ngoại phát ra từ bề mặt Sao Thủy và bầu khí quyển của Sao Kim, từ đó có thể tính được nhiệt độ. Stillman C. Chase, Jr. của Trung tâm Nghiên cứu Santa Barbara đứng đầu thí nghiệm liên quan đến radiometer hồng ngoại.

Máy quang phổ tử ngoại

Hai máy quang phổ tử ngoại đã tham gia vào thí nghiệm này, một cái là để đo sự hấp thụ tia tử ngoại, cái còn lại là để cảm nhận sự phát xạ tia tử ngoại. Máy quang phổ occultation quét rìa của Sao Thủy khi nó đi qua phía trước Mặt Trời và phát hiện xem bức xạ tử ngoại của Mặt Trời có bị hấp thụ ở các bước sóng nhất định hay không, điều này sẽ cho thấy sự hiện diện của các hạt khí, từ đó kết luận về bầu khí quyển. Máy quang phổ khí huy đã phát hiện ra bức xạ cực tím cực mạnh phát ra từ các nguyên tử khí hydro, heli, carbon, oxy, neon và argon.

Máy dò plasma

Mục tiêu của thí nghiệm plasma là nghiên cứu các plasma của gió Mặt Trời, nhiệt độ và mật độ electron của plasma, và cách các hành tinh ảnh hưởng đến vận tốc của dòng plasma.

Từ kế

Hai từ kế được dùng để xác định xem liệu Sao Thủy có từ trường hay không, và nghiên cứu từ trường liên hành tinh giữa các lần bay ngang qua. Dữ liệu từ hai từ kế sẽ được tham chiếu chéo để tạo ra dữ liệu cuối cùng.

Rời khỏi Trái Đất

nhỏ|Hình ảnh Trái Đất và [[Mặt Trăng. Nó được chụp ngay sau khi Mariner 10 được phóng.]] Boeing hoàn thành việc chế tạo tàu vũ trụ vào cuối tháng 6 năm 1973 và Mariner 10 được chuyển từ Seattle đến trụ sở chính của JPL ở California, nơi JPL kiểm tra toàn diện tính toàn vẹn của tàu vũ trụ và các thiết bị của tàu. Sau khi các cuộc thử nghiệm kết thúc, tàu thăm dò được chuyển đến Bãi thử nghiệm phía đông (Eastern Test Range) ở Florida, địa điểm phóng. Các kỹ thuật viên đã đổ đầy nhiên liệu hydrazin vào một thùng chứa trên tàu để tàu có thể điều chỉnh hướng đi và gắn squib. Khi squib nổ thì Mariner 10 sẽ rời khỏi tên lửa đẩy, sau đó sẽ triển khai các thiết bị của tàu. Việc theo kế hoạch là sử dụng hỗ trợ hấp dẫn bởi Sao Kim khiến việc sử dụng Atlas-Centaur trở nên khả thi hơn việc sử dụng tên lửa Titan IIIC mạnh hơn nhưng đắt tiền hơn.

Hành trình đến Sao Kim

thumb|left|Quỹ đạo của tàu vũ trụ Mariner 10: phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, và lần đầu tiên bay qua Sao Thủy vào ngày 29 tháng 3 năm 1974.

Chuyến hành trình kéo dài ba tháng tới Sao Kim của Mariner 10 đầy rẫy những trục trặc kỹ thuật khiến việc kiểm soát sứ mệnh luôn ở tình trạng khó khăn. Một sự điều chỉnh quỹ đạo đã được thực hiện vào ngày 13 tháng 11 năm 1973. Ngay sau đó, thiết bị theo dõi sao Canopus bị trục trặc. Một giao thức an toàn tự động đã phục hồi thiết bị theo dõi sao Canopus, nhưng vấn đề sơn bong tróc vẫn tái diễn trong suốt nhiệm vụ. Máy tính trên bo mạch cũng thỉnh thoảng bị trục trặc đột xuất, điều này đòi hỏi phải cấu hình lại trình tự đồng hồ và các hệ thống phụ. Các sự cố định kỳ với ăngten độ lợi cao cũng xảy ra trong suốt hành trình. Vào ngày 8 tháng 1 năm 1974, một sự cố được cho là do một diode bị ngắn mạch đã xảy ra trong hệ thống phụ năng lượng. Kết quả là bộ điều chỉnh tăng áp chính và biến tần bị lỗi, khiến tàu vũ trụ phải phụ thuộc vào bộ điều chỉnh dự phòng. Các nhà hoạch định sứ mệnh lo sợ rằng vấn đề tương tự có thể tái diễn trong hệ thống dự phòng và làm tê liệt tàu vũ trụ.

Vào tháng 1 năm 1974, Mariner 10 đã thực hiện các quan sát tử ngoại về sao chổi Kohoutek.

Bay ngang qua Sao Kim

thumb|Sao Kim chụp bởi tàu Mariner 10, 1974. |thumb|Ảnh chụp Sao Kim của Mariner 10 dưới ánh sáng tử ngoại (ảnh được tăng cường màu sắc).

Tàu vũ trụ bay qua Sao Kim vào ngày 5 tháng 2 năm 1974, khoảng cách ở lần tiếp cận gần nhất là , lúc 17:01 UTC. Đây là tàu vũ trụ thứ 12 đến Sao Kim và là tàu vũ trụ thứ 8 gửi lại dữ liệu từ hành tinh này. Dữ liệu của Mariner 10 được xây dựng dựa trên những quan sát của Mariner 5 sáu năm trước đó; quan trọng là Mariner 10 có một máy ảnh trong khi nhiệm vụ trước đó lại thiếu một chiếc. Ban đầu, các kỹ sư lo sợ rằng thiết bị theo dõi sao Canopus của tàu có thể nhầm lẫn Sao Kim với Canopus. Tuy nhiên, thiết bị theo dõi sao đã không gặp trục trặc. Hiện tượng che khuất Trái Đất (Earth occultation) xảy ra trong khoảng thời gian từ 17:07 đến 17:11 UTC, trong khi đó tàu vũ trụ đang truyền sóng vô tuyến băng tần X qua bầu khí quyển của Sao Kim, thu thập dữ liệu về cấu trúc và nhiệt độ của các đám mây. Mặc dù tầng mây bao phủ Sao Kim gần như không có gì đặc biệt trong phổ nhìn thấy được, nhưng người ta phát hiện ra rằng có thể nhìn thấy chi tiết các đám mây qua các filter máy ảnh tia tử ngoại của Mariner. Các quan sát tử ngoại trên Trái Đất đã cho thấy một số vết mờ không rõ ràng, nhưng chi tiết mà Mariner nhìn thấy là một điều đáng ngạc nhiên đối với hầu hết các nhà nghiên cứu. Tàu thăm dò tiếp tục chụp ảnh Sao Kim cho đến ngày 13 tháng 2 năm 1974.

Các lần bay ngang qua Sao Thủy

Lần bay ngang qua Sao Thủy đầu tiên

Tàu vũ trụ đã bay qua Sao Thủy ba lần. Lần tiếp cận đầu tiên với Sao Thủy diễn ra lúc 20:47 UTC ngày 29 tháng 3 năm 1974, ở cự ly , đi qua phía mặt tối. Mariner 10 đã không được phát hiện hoặc theo dõi từ Trái Đất kể từ khi nó ngừng truyền tín hiệu. Cách duy nhất để Mariner 10 không còn quay quanh quỹ đạo là nếu nó bị một tiểu hành tinh va phải hoặc bị nhiễu loạn hấp dẫn do tiếp cận gần một vật thể lớn.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Mariner 10_** là một tàu thăm dò không gian không người lái của Mỹ do NASA phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, bay ngang qua Sao Thủy và Sao Kim. _Mariner 10_ được
nhỏ|Phóng tàu vũ trụ [[Mariner 1, 1962]] **Chương trình Mariner** là chương trình vũ trụ thăm dò hành tinh khác được thực hiện bởi NASA. Giữa năm 1962 và cuối năm 1973, Phòng thí nghiệm
**_Mariner 9_** (**_Mariner Mars '71_** / **_Mariner-I_**) là một tàu vũ trụ robot của NASA đã đóng góp rất lớn cho việc thăm dò Sao Hỏa và là một phần của chương trình _Mariner_. _Mariner
Sao Thủy là hành tinh gần Mặt Trời nhất và không có bất kỳ vệ tinh tự nhiên nào. Một vệ tinh chưa được khám phá quay quanh hành tinh này đã được giả thuyết
**USS _Bebas_ (BDE-10/DE-10)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**Sao Thủy** (tiếng Anh: **Mercury**) hay **Thủy Tinh** (chữ Hán: 水星) là hành tinh nhỏ nhất và gần Mặt Trời nhất trong tám hành tinh thuộc hệ Mặt Trời, với chu kỳ quỹ đạo bằng
**Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ** hay **Cơ quan Hàng không và Không gian Hoa Kỳ**, tên đầy đủ tiếng Anh là **National Aeronautics and Space Administration**, viết tắt là **NASA**, là
**Thăm dò Sao Thủy** chỉ đóng một vai trò nhỏ nhoi trong mối quan tâm về không gian của thế giới. Nó là hành tinh bên trong ít được thăm dò nhất. Tính tới năm
Tàu thăm dò **MESSENGER** (viết tắt từ các chữ tiếng Anh **MErcury Surface, Space ENvironment, GEochemistry and Ranging** - Bề mặt Sao Thủy, môi trường không gian, địa hóa học và du hành) là một
phải|Tên lửa [[Titan II phóng tàu vũ trụ Gemini vào những năm 1960.]] **Cuộc chạy đua vào vũ trụ** hay **cuộc chạy đua vào không gian** là cuộc cạnh tranh thám hiểm vũ trụ gay
**Caloris Planitia** () là một đồng bằng nằm trong một hố va chạm lớn trên Sao Thủy, có tên không chính thức là **Caloris**. "Calor" trong tiếng Latinh có nghĩa là "nhiệt". Sở dĩ đặt
Sao Thủy có bầu khí quyển rất mỏng và rất khác nhau, chứa hydro, heli, oxy, natri, calci, kali và hơi nước, với áp suất tổng vào khoảng 10−14 bar (1 nPa). Các nguyên tố
**Từ kế** hay **máy đo từ** là thiết bị dùng để đo đạc _cường độ_ và có thể cả _hướng_ của từ trường trong vùng đặt _cảm biến từ trường_. _Cảm biến từ trường_ hoạt
**Từ trường Sao Thủy** gần như là từ trường lưỡng cực phân bố trên toàn bộ Sao Thủy một cách rõ ràng. Dữ liệu từ _Mariner 10_ đã dẫn tới việc khám phá ra từ
**Natri** (bắt nguồn từ tiếng Tân Latinh: _natrium_; danh pháp IUPAC: **sodium**; ký hiệu hóa học: **Na**) là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm kim loại kiềm có hóa trị một trong bảng tuần
**BepiColombo** là một nhiệm vụ vũ trụ liên kết giữa Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) và Cơ quan thăm dò vũ trụ Nhật Bản (JAXA) cho hành tinh Sao Thủy. Nhiệm vụ bao
thumb|Sơ đồ quỹ đạo cho phép 2 tàu vũ trụ Voyager 1 và Voyager 2 của NASA đi qua 4 hành tinh khổng lồ của hệ Mặt Trời và đạt đủ tốc độ để thoát
**Thiên thể giả thuyết trong Hệ Mặt Trời** là một hành tinh, vệ tinh tự nhiên, vệ tinh phụ hoặc thiên thể tương tự trong Hệ Mặt Trời mà sự tồn tại của chúng không
Hình ảnh của Sao Hỏa, được ghép lại từ 102 ảnh chụp riêng lẻ bởi tàu quỹ đạo [[Viking 1 vào năm 1980.]] **Khí hậu Sao Hỏa** là các thống kê đo lường về thời
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_U-615_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_Voyager 1_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 5 tháng 9 năm 1977, như một phần của chương trình Voyager nhằm nghiên cứu vòng ngoài Hệ Mặt Trời và môi
**USS _Alvin C. Cockrell_ (DE-366)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**_U-572_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Hội Nữ Hướng đạo Mỹ** (_Girl Scouts of the United States of America_) là một tổ chức thanh thiếu niên dành cho nữ tại Hoa Kỳ và các bé gái sống ở hải ngoại. Chương
**Captain America** () là một siêu anh hùng hư cấu xuất hiện trong truyện tranh của Hoa Kỳ được xuất bản bởi Marvel Comics. Được tạo bởi họa sĩ truyện tranh Joe Simon và Jack
**Địa lý Sao Hỏa** là một lĩnh vực con của khoa học hành tinh, chuyên phân định và mô tả đặc điểm địa lý của các vùng của Sao Hỏa. Địa lý Sao Hỏa giống
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**T****àu ma** là một chiếc tàu không có thủy thủ đoàn sống trên đó, nó có thể là một tàu bị ma ám trong văn hóa dân gian hay viễn tưởng hư cấu, như tàu
Tập tin:1965 Events Collage.jpg|430x430px|thumb|Theo chiều kim đồng hồ từ bên trái:
**Alexei Leonov** trở thành phi hành gia đầu tiên đi bộ ngoài không gian trong **Voskhod 2**; Các thành viên của ABRI thực
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
**_Galileo_** là một tàu thăm dò không gian robot của Mỹ đã nghiên cứu Sao Mộc, các vệ tinh của Sao Mộc, và các tiểu hành tinh Gaspra và Ida. Được đặt tên theo nhà
**Carl Edward Sagan** (; 9 tháng 11 năm 1934 – 20 tháng 12 năm 1996) là nhà thiên văn học, vật lý thiên văn, vũ trụ học, sinh học vũ trụ, tác giả sách, nhà
Khí quyển Sao Hỏa chụp nghiêng (có sử dụng kính lọc đỏ) bởi [[vệ tinh Viking cho thấy các lớp bụi lơ lửng cao đến 50 km]] Sao Hỏa lộ ra như một sa mạc
**Marvel Comics** (hay đơn giản là **Marvel**) là nhà xuất bản truyện tranh của Mỹ và là chi nhánh chính của **Marvel Worldwide Inc.** (trước đây là **Marvel Publishing, Inc.** và **Marvel Comics Group**), một
**_Voyager 2_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 20 tháng 8 năm 1977, để nghiên cứu các hành tinh bên ngoài và không gian giữa các vì sao bên ngoài
Các tập Team up trong Power Rangers là những tập hợp tác giữa các siêu nhân trong series và các siêu nhân ở các series trước nhằm đánh lại cùng một kẻ thù, thực ra
**Samuel Taylor Coleridge** (21 tháng 10 năm 1772 – 25 tháng 7 năm 1834) – Nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà triết học Anh, một đại diện tiêu biểu của các nhà thơ
**_U-513_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-359_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**Phần mềm xử lý bảng tính** hay **Bảng tính** (tiếng Anh**: Spreadsheet**) là một phần mềm ứng dụng dùng để tổ chức, phân tích và lưu trữ dữ liệu thông qua các bảng tính (gọi
**Chorley** là một thị trấn ở Lancashire, Anh, về phía bắc của Wigan, về phía tây nam của Blackburn, về phía tây bắc của Bolton, về phía nam của Preston và về phía tây bắc
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**USS _Cony_ (DD-508/DDE-508)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Aulick_ (DD-569)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**Câu lạc bộ bóng đá Plymouth Argyle** là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp đến từ thành phố Plymouth, Devon, Anh. Kể từ mùa giải 2020-21, đội sẽ thi đấu tại League One,
**USS _Wilkes_ (DD-441)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**Northrop Grumman RQ-4 Global Hawk** là một loại máy bay trinh sát không người lái. Ban đầu được thiết kế bởi công ty hàng không Ryan (giờ là công ty con của Northrop Grumman), và
**Bão Nora** là xoáy thuận nhiệt đới mạnh thứ ba từng được ghi nhận. Cơn bão có nguồn gốc từ một vùng áp suất thấp trên Tây Bắc Thái Bình Dương và nó đầu tiên
**USS _Peterson_ (DE–152)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Edsall_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của