✨Mận hậu

Mận hậu

Mận hậu, hay còn có tên là mận bắc, mận Hà Nội hoặc gọi vắn tắt là mận tại Việt Nam (danh pháp hai phần: Prunus salicina, danh pháp đồng nghĩa: Prunus triflora hoặc Prunus thibetica), trong thương mại quốc tế gọi là mận Nhật Bản hoặc mận Trung Quốc, là một loài thực vật thuộc phân chi Mận mơ, thuộc loại cây ăn quả. Cây nhỏ rụng lá có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay loài được trồng tại các vườn cây ăn quả ở Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel, Hoa Kỳ và Úc.

Không nên nhầm lẫn mận hậu với , một loài có họ hàng cũng được trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Một cây khác, úc lý, cũng là một loài riêng biệt mặc dù có tên Latin gần giống với tên thường gọi của loài này.

Tên gọi

Một số tên gọi của loại cây này, ngoài mận Nhật Bản hoặc Trung Quốc, là Anh đào lá liễu, mận Châu Á, trong tiếng Anh, Ameixa hoặc Ameixa-japonesa trong tiếng Bồ Đào Nha, 李 li trong tiếng Quan Thoại và Japanskt plommon trong tiếng Thụy Điển. Tại Vịệt Nam, ngoài tên mận hậu còn được gọi là mận bắc, mận Hà Nội hay đơn giản gọi ngắn gọn là mận.

Chi Prunus, xuất phát từ Prunum trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là quả mận. Tính ngữ riêng, salicina, có nguồn gốc từ tiếng Latin có nghĩa là cây liễu.

Mô tả

Mận hậu cao và nhánh cây có màu nâu tía đến nâu đỏ và chồi bên có màu đỏ vàng.

Lá dài 6–12 cm và rộng 2,5–5 cm, có mép hình vỏ sò, khi còn non thường hòa lẫn với các răng hình đầu tuyến đơn. Hình dạng lá có xu hướng thuôn dài, mặc dù đôi khi lá thay đổi nhẹ thành hình trứng (rộng hơn ở phần giữa), hình elip hẹp hoặc trong vài trường hợp hiếm hoi có chút hình trứng (nửa rộng hơn ở phần giữa). Phần gốc lá có hình nêm và đỉnh có phạm vi từ nhọn sắc (đỉnh nhọn) đến có đuôi (đuôi ngắn mảnh). Mặt trên của lá có màu xanh đậm bóng, 6 hoặc 7 gân phụ ở hai bên gân giữa không kéo dài đến mép lá. Cây ra quả từ tháng 7 đến tháng 8. Khi chín hoàn toàn có thể ăn tươi. So với mận Âu, quả mận hậu có hương vị và mùi thơm nồng hơn, kết cấu chắc hơn, màu sắc đẹp hơn, kích thước lớn hơn và giá trị dinh dưỡng tốt.

Hạt mận hậu hình bầu dục (hình quả trứng) đến thuôn dài và nhăn nheo. Các quần thể hoang dã của loài này được cho là phát triển mạnh ở các tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Cây được du nhập vào Úc và Nhật Bản. Mối quan hệ này với nấm Hebeloma hiemale được chứng minh làm tăng tốc độ tăng trưởng ròng ở loài lai giữa mận anh đào và mận hậu, so với phân bón hóa học, phân hữu cơ và đối chứng.

Tác dụng của mận hậu giúp cải thiện đất ở các khu vực núi đá vôi tại Trung Quốc đã được trộn lẫn. Một nghiên cứu được thực hiện tại Công viên đá vôi Quý Dương, Quý Châu, Trung Quốc, kết luận rằng mận hậu kết hợp với rêu, Homomallium plagiangium, Cyrto-hypnum pygmaeumanBrachythecium perminusculum và các loại thảo mộc Veronica arvensisYoungia japonica, là những loài thực vật tiên phong phù hợp để trồng trọt để sử dụng khi phục hồi vùng xói mòn đất karst. Được trồng trên đất trồng trọt bị sa mạc hóa đá, ở thành phố Hechi, mận hậu làm tăng tỷ lệ carbon trên nitơ và chất lượng đất ở tầng đất 10–20 cm, mặc dù nhìn chung, cây có ảnh hưởng hạn chế đến cải tạo đất vì phát triển nhanh và sản lượng cao, tăng khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng từ đất.

Trồng trọt

Quốc gia sản xuất mận hậu chủ yếu là Trung Quốc, tiếp theo là Hoa Kỳ, Mexico, Ý, Tây Ban Nha, Pakistan, Hàn Quốc, Úc, Chile, Pháp, Nam Phi và Argentina. Loại quả này nổi tiếng nhất ở Việt Nam là giống mận Tam Hoa được trồng ở thị trấn Bắc Hà, Lào Cai.

Các giống cây Nhật Bản du nhập vào Hoa Kỳ từ nửa sau thế kỷ 19. Tại đây, hoạt động nhân giống tiếp tục đã tạo ra nhiều giống mận khác, thường cho quả to hơn. Nhà nhân giống cây trồng Luther Burbank đã phát triển một số giống bằng cách lai mận hậu với hạnh lý và các loại mận lưỡng bội bản địa Bắc Mỹ khác như Prunus americana, Prunus hortulana hoặc Prunus munsoniana. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, từ những giống lai này, Burbank đã chọn các giống như 'Beauty', 'Eldorado', 'Formosa', 'Gaviota', 'Santa Rosa', 'Shiro' và 'Wickson', một số trong đó vẫn được trồng rộng rãi. Một trong những giống nổi tiếng, "Santa Rosa", được đặt tên theo thành phố ở California.

Hầu hết mận tươi được bán ở các siêu thị Bắc Mỹ là giống mận hậu hoặc giống lai. Chúng được trồng trên quy mô lớn ở một số quốc gia khác, chẳng hạn chúng thống trị ngành công nghiệp quả hạch ở Tây Úc. Tập tin:W sumomo4061.jpg Tập tin:Shiny plum.jpg Tập tin:16-09-17-WikiLovesCocktails-Zutaten-Img0163.jpg Tập tin:Black Amber Plum DS.jpg|alt=|Mận hổ phách đen Tập tin:Plums African Rose - whole, halved and slice.jpg|alt=|Mận hồng châu Phi

Đe dọa

Khi gieo trồng ngoài trời, loài này dễ bị nhiễm một số loại virus bao gồm virus thủy đậu và virus đốm vòng hoại tử mận. Các mối đe dọa khác đối với loài này vẫn chưa được khám phá. Trong khi vài mối đe dọa đã biết đối với các khu rừng ở Trung Quốc, bao gồm khai thác gỗ, phá rừng và ô nhiễm không khí và nước thì vẫn chưa biết liệu những mối đe dọa này có ảnh hưởng trực tiếp đến mận hậu hay không. Kể từ năm 2023, tình trạng đe dọa trong Sách đỏ IUCN là Ít quan tâm và quần thể loài đạt ổn định. Sách đỏ IUCN khuyến nghị "kết hợp quản lý và giám sát quần thể trong khu vực được bảo vệ, nơi loài này xuất hiện" và "thu thập ngoại vi bổ sung, đảm bảo toàn bộ đa dạng di truyền tìm được trong tự nhiên thu thập vào ngân hàng gen."

Ở Trung Quốc, kẹo trái cây cũng được bán bảo quản, thêm đường, muối và cam thảo. Một nghiên cứu về tìm kiếm thức ăn ở Thung lũng Công Ba (quận Chu Khúc, Cam Túc, Trung Quốc) đã xác định mận hậu là một trong những loại trái cây dại được ăn phổ biến nhất. Rượu làm từ quả mận hậu được trộn với rượu quả mơ và rượu trà ô long để tạo ra rượu mận kiểu Nhật, wumeijiu (rượu mận hun khói), ở Đài Loan.

Ở Nhật Bản, mặc dù người ta ít ăn mận hậu hơn quả mơ có họ hàng gần, nhưng quả được ngâm chua và tạo màu theo cách tương tự. Đặc biệt ở miền đông Nhật Bản, nhiều lễ hội mùa hè bán trái cây ngâm trong kẹo mizuame được gọi là anzuame (kẹo mơ, vì quả mơ được sử dụng theo truyền thống trong công thức).

Ở cả hai quốc gia, quả cũng được dùng để làm hương liệu trong rượu mùi gọi là sumomo shu (すもも酒) tại [https://web.archive.org/web/20110716143954/http://www7.airnet.ne.jp/yamadaya/sumomo.gif ảnh] Nhật Bản.

Đối với các mục đích sử dụng khác của loài này và các loài tương tự, xem mận .

Dược phẩm

Nhiều loại trái cây được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc để tăng cường khả năng miễn dịch chống lại các tác nhân truyền nhiễm và điều trị ung thư. Mận và củ dền có thể được xem là nguồn chất chống oxy hóa có khả năng chống lại quá trình oxy hóa. Quả mận hậu có thể chứa thành phần kích thích miễn dịch (kích thích hệ thống miễn dịch bằng cách kích hoạt hoặc tăng hoạt động) có khả năng hữu ích trong y học cho người và trong ngành thú y. Một nghiên cứu đánh giá chiết xuất ethanol từ 400 loại thảo mộc cho thấy mận hậu là chất ức chế Glucosyltransferase (GTF) hiệu quả nhất và cho thấy hoạt tính kháng khuẩn cao nhất. Đã có nghiên cứu về việc liệu quả mận hậu có tác dụng chống ung thư hay không nhờ đặc tính chống oxy hóa, nhưng tính đến năm 2023, người ta vẫn chưa rõ vai trò của chất chống oxy hóa nói chung trong việc bảo vệ và điều trị ung thư.

Độc tính

Cũng như các loại trái cây hạt cứng khác, hạt và lá rất độc đối với con người vì chúng chứa amydalin, chất này sẽ phân hủy thành hydro xyanua. Mặc dù khó có thể xảy ra ngộ độc do vô tình nuốt phải một vài hạt, nhưng nên tránh ăn phải và không bao giờ tiêu thụ những hạt đã nghiền nát.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mận hậu**, hay còn có tên là **mận bắc**, **mận Hà Nội** hoặc gọi vắn tắt là **mận** tại Việt Nam (danh pháp hai phần: _Prunus salicina,_ danh pháp đồng nghĩa: _Prunus triflora_ hoặc _Prunus
**Mẫn Hầu** (_chữ Hán_: 愍侯 hoặc 闵侯 hay 敏侯) là thụy hiệu của một số vị vua chư hầu và tướng lĩnh quan lại. ## Danh sách Mẫn Hầu (愍侯) *Tây Chu Kỷ Mẫn hầu
Mận hậu là loại trái cây rất hấp dẫn, có vị chua chua ngọt ngọt, chấm với muối ớt thì đúng là ăn hoài không chán.Mận hậu còn được gọi là mận Bắc hay mận
**Cơ căng màn hầu** (tiếng Anh: _tensor palati_) là một cơ rộng, mỏng, giống như ruy băng trong đầu làm căng vòm miệng mềm. ## Cấu trúc Căng màn hầu được tìm thấy ở
**Trung Mẫn Hầu** (_chữ Hán_:忠敏侯 hoặc 忠愍侯) trong Tiếng Việt là thụy hiệu của một số vị hầu tước trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách Trung Mẫn Hầu
**Mân Hầu ** (tiếng Trung: 闽侯县, Hán Việt: _Mân Hầu huyện_) là một huyện thuộc thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Huyện này có diện tích 2126 km², dân số 988,200 người, mã
**Kỷ Mẫn Hầu** trong Tiếng Việt có thể là: ## Danh sách *Kỷ Mẫn hầu (纪愍侯): vị quân chủ thứ 12 của nước Kỷ (tại vị: 903 TCN-899 TCN) *Kỷ Mẫn hầu (纪闵侯): vị quân
Hướng Nghiệp 4.0 - Food Stylist - Vén Màn Hậu Trường Của Những Bước Chân 4.0
Freelance Coach - Vén Màn Hậu Trường Của Những Bước Chân 4.0
Freelance Writer - Vén Màn Hậu Trường Của Những Bước Chân 4.0
Mận hậu là loại trái cây rất được yêu thích, có vị chua chua ngọt ngọt, chấm với muối ớt thì đúng là ăn hoài không chán.Mận hậu là loại trái cây được rất nhiều
nhỏ|Mận hoa hồng châu Phi **Mận** là quả của một số loài trong phân chi Mận mơ_._ Mận được phơi sấy khô được gọi là mận khô. Mận là cây ăn quả được loài người
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chi Mận mơ** (danh pháp khoa học: **_Prunus_**) là một chi của một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ và cây bụi, trong đó có các loài như mận hậu, mơ, đào, anh đào
nhỏ|phải|Biểu tượng chữ Vạn trong Phật giáo ở Nepal **Các biểu tượng may mắn** (_Lucky symbols_) là một số sự vật, hiện tượng, đồ vật, hình dáng hoặc các chỉ dấu, điềm báo mà khi
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Mãn Châu** là một tên gọi ngoại lai cho một số vùng đất lịch sử và địa lý lớn của Trung Quốc và Nga chồng lấn lên nhau ở Đông Bắc Á. Tùy thuộc vào
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
thumb|phải|Rừng ngập mặn ở [[Tibar (Đông Timor)]] **Rừng ngập mặn:** Khái niệm về rừng ngập mặn đã được nhiều tác giả đề cập. Một trong những khái niệm về RNM được sử dụng rộng rãi
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Hoa hậu Thế giới **(tiếng Anh: **Miss World**) là tên cuộc thi sắc đẹp quốc tế được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là cuộc thi có có quy mô lớn thứ nhất trên thế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Thạch Giám** (石鑒, Shí Jiàn) (?-350), tên tự **Đại Lang** (大郎) là một hoàng đế trị vì trong 103 ngày của nước Hậu Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là vị hoàng đế thứ
**Hiếu Mục Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝穆成皇后, ; 1781 - 17 tháng 2 năm 1808), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. Bà kết hôn với Đạo Quang
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
nhỏ|300x300px|Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở Thành phố Hồ Chí Minh (2010) **Biến đổi khí hậu ở Việt Nam** sẽ dẫn đến một thực trạng, trong những thập
**Sông Hậu** hay **Hậu Giang**, phía Campuchia gọi là **Tonlé Bassac** (), là một phân lưu của sông Mê Kông, chảy qua và Việt Nam. ## Dòng chảy Sông Bassac tách ra khỏi dòng chính
**Hậu chấn tâm lý** hay **rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương** (tiếng Anh: **_p**ost-**t**raumatic **s**tress **d**isorder_ – PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp
**Hậu Bột Hải** (927 - 994) là một quốc gia được cho là đã tồn tại ở Mãn Châu và miền bắc bán đảo Triều Tiên. Quốc gia này được vương tộc họ Đại thành
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Thần Trinh Vương hậu** (chữ Hán: 神貞王后; Hangul: 신정왕후; 6 tháng 2, năm 1808 – 17 tháng 4, năm 1890), hay còn gọi là **Thần Trinh Dực hoàng hậu** (神貞翼皇后; 신정익황후) là một Vương hậu
**Chu Mãn Nguyệt** (chữ Hán: 朱滿月; 547 – 586) là một trong bốn Hoàng hậu không chính thống của Bắc Chu Tuyên Đế Vũ Văn Uân, và là sinh mẫu của Bắc Chu Tĩnh Đế
**Người Mãn** hay **Người Mãn Châu** hoặc **Người Nữ Chân** (tiếng Mãn: , _Manju_; tiếng Mông Cổ: Манж, tiếng Nga: Маньчжуры; tiếng Trung giản thể: 满族; tiếng Trung phồn thể: 滿族; bính âm: Mǎnzú;
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ