✨Rừng ngập mặn
thumb|phải|Rừng ngập mặn ở [[Tibar (Đông Timor)]] Rừng ngập mặn: Khái niệm về rừng ngập mặn đã được nhiều tác giả đề cập. Một trong những khái niệm về RNM được sử dụng rộng rãi do Tomlinson P.B (1986) đề xuất, cho rằng RNM là “nơi mà các thực vật thân gỗ và cây bụi sinh trưởng và phát triển ở vùng chuyển tiếp giữa đất liền và biển thuộc vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, nơi chúng có thể tồn tại trong điều kiện độ mặn cao, triều cường, sóng lớn, nhiệt độ cao, trên đất bùn và đất thiếu khí ".
Theo NOAA (National Oceanic and Atmospheric Administration) của NOS (National Ocean Service), 2023 cho rằng: Rừng ngập mặn là một nhóm cây gỗ và cây bụi sống ở vùng bãi triều ven biển. Có khoảng 80 loài cây ngập mặn khác nhau. Tất cả những cây này mọc ở những vùng đất có hàm lượng oxy thấp, nơi nước chảy chậm cho phép tích tụ trầm tích mịn. Rừng ngập mặn chỉ phát triển ở vĩ độ nhiệt đới và cận nhiệt đới gần xích đạo vì chúng không chịu được nhiệt độ đóng băng. Nhiều khu rừng ngập mặn có thể được nhận ra nhờ hệ thống rễ chống dày đặc khiến cây trông như đang đứng trên mặt nước. Rễ rối này cho phép cây chịu được sự lên xuống hàng ngày của thủy triều, điều đó có nghĩa là hầu hết rừng ngập mặn bị ngập ít nhất hai lần mỗi ngày. Rễ cũng làm chậm chuyển động của nước thủy triều, làm cho trầm tích lắng ra khỏi nước và bồi đắp đáy bùn. Rừng ngập mặn ổn định đường bờ biển, giảm xói mòn do bão, dòng chảy, sóng và thủy triều. Hệ thống rễ phức tạp của rừng ngập mặn cũng làm cho những khu rừng này trở nên hấp dẫn đối với cá và các sinh vật khác đang tìm kiếm thức ăn và nơi trú ẩn khỏi những kẻ săn mồi.
Theo Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường thì rừng ngập mặn được xác định: “Rừng ngập mặn, bao gồm: rừng ven bờ biển và các cửa sông có nước triều mặn ngập thường xuyên hoặc định kỳ”.
Theo Tiêu chuẩn Quốc gia: TCVN 12509-3:2018. Rừng trồng - Rừng sau thời gian kiến thiết cơ bản - Phần 3: nhóm loài cây ngập mặn, định nghĩa: Rừng ngập mặn là Rừng phát triển trên vùng đất ngập nước mặn vùng cửa sông, ven biển hoặc dọc theo các sông ngòi, kênh rạch có nước lợ do thủy triều lên xuống hàng ngày.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về phân bố rừng ngập mặn ở Việt Nam giai đoạn 2005 đến 2025, TS. Đỗ Quý Mạnh - Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình nhận thấy, không những sự phân bố của rừng ngập mặn là ven bờ biển, các cửa sông, mà còn gặp rất nhiều quần xã thực vật ngập mặn ở các khu vực vụng, vịnh, đầm, phá,… Đặc trưng khu vực Nam Trung Bộ phân bố rừng ngập mặn tập trung tại các đầm lớn như đầm Thị Nại, đầm Đề Gi, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định; đầm Nại, Vườn Quốc gia Núi Chúa tỉnh Ninh Thuận; khu vực xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa,… Như vậy, có thể hiểu Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc trưng ở khu vực nước mặn ven bờ ở Việt Nam với sự phân bố rừng ở các khu vực ven bờ biển, các cửa sông, vùng vịnh, đầm, phá nơi rừng thích nghi với các điều kiện lập địa đặc trưng là nước mặn, đất yếm khí và chịu ảnh hưởng của chế độ sóng biển, thủy triều định kỳ hoặc thường xuyên.
Sinh thái học
nhỏ|Rừng ngập mặn ở Việt Nam Môi trường sinh thái của rừng ngập mặn là chuyển tiếp giữa biển và đất liền do vậy sự tồn tại phân bổ, phát triển và tổ thành loài của rừng ngập mặn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố sinh thái mà cho đến nay vẫn chưa có những đánh giá hay khẳng định về mức độ quan trọng của các nhân tố sinh thái đó.
Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố như nhiệt độ, gió và lượng mưa tác động ảnh hưởng đến ranh giới phân bổ và kích thước phát triển của các loài thực vật trong rừng ngập mặn. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng rõ ràng đến phân bổ của giới động vật cư trú tại rừng ngập mặn.
Thủy văn
Các yếu tố của thủy văn như thủy triều, hải lưu, dòng nước ngọt là những yếu tố tương đối quan trọng và ảnh hưởng lớn đến phân bổ của rừng ngập mặn. Chúng không những ảnh hưởng trực tiếp lên thực vật tại rừng ngập mặn qua mức độ ngập, thời gian ngập, độ mặn, kết cấu thể nền, sự bốc hơi mà còn tác động tới sinh trưởng của cây rừng ngập mặn và các loài động vật của rừng ngập mặn.
Độ mặn
Độ mặn là một trong những yếu tố sinh thái quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và tồn tại của rừng ngập mặn. Đối với nồng độ mặn khác nhau của nước biển sẽ kéo theo sự phân bố khác nhau của các loài thực vật tổ thành nên rừng ngập mặn. Độ mặn còn ảnh hưởng tới kích thước sinh trưởng nhiều loài thực vật và động vật rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn phát triển tốt nhất nơi nước ngập có độ mặn từ 15-25‰, nhưng nơi có độ mặn dưới 4‰ sẽ không còn rừng ngập mặn tự nhiên, nhưng nới có độ mặn 40-80‰ rừng ngập mặn sẽ có tổ thành loài nghèo nàn.
Thể nền
Rừng ngập mặn phát triển phổ biến nhất ở thể nền bùn sét là các khu vực ngập mặn ven biển ở vịnh kín, cửa sông. Tuy nhiên nhiều thể nền khác cũng có thể phát triển rừng ngập mặn như bùn cát, sét bùn cát, ít khi ghi nhận thấy thể nền của rừng ngập mặn là san hô hay cát thô lẫn sỏi đá.
Địa hình
Rừng ngập mặn chủ yếu xuất hiện ở các vùng có địa hình bờ biển nông cạn, ít sóng. Những khu vực có bờ biển hẹp, sâu, khúc khuỷu thường không xuất hiện sự phát triển của rừng ngập mặn tự nhiên.
Phân bố
thumb|phải|
- Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương gồm Nam Nhật Bản, Philippines, Đông Nam Á, Ấn Độ, bờ biển Hồng Hải, Đông Phi, Úc, New Zealand, quần đảo phía Nam Thái Bình Dương tới tận đảo Samoa.
- Khu vực Tây Phi và châu Mỹ, bao gồm bờ biển châu Phi phía Đại Tây Dương, quần đảo Galapagos và châu Mỹ.
Tổng diện tích rừng ngập mặn thế giới vào khoảng 15.429.000 ha, trong đó có 6.246.000 ha thuộc châu Á nhiệt đới và châu Đại dương, 5.781.000 ha ở châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc châu Phi.
Rừng ngập mặn ở Việt Nam
Rừng ngập mặn tại [[Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Việt Nam]] Năm 2013, rừng ngập mặn ở Việt Nam che phủ diện tích khoảng 155.279 hecta, hầu hết ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Vai trò
Rừng ngập mặn quan trọng là vì chúng cung cấp rất nhiều lợi ích cho con người, động vật và những hệ sinh thái xung quanh.
Cung cấp sinh kế cho con người
Rừng ngập mặn cung cấp nhiều loại nguyên vật liệu mà con người cần. Con người ăn, đánh bắt và bán nhiều loài cá và động vật có vỏ sống trong rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn còn cung cấp nhiều nguyên liệu mà con người thường xuyên sử dụng như củi và than (từ những cành cây chết), dược liệu, sợi, thuốc nhuộm, mật ong và lá dừa để lợp mái. Rừng ngập mặn có giá trị về văn hóa đối với rất nhiều người và còn thích hợp cho du lịch. Rừng ngập mặn đang là nơi cung cấp sinh kế cho nhiều người trên toàn thế giới,họ sống dựa vào việc khai khác các giá trị từ những cánh rừng ngập mặn.
Bảo vệ chống thiên tai
Rừng ngập mặn bảo vệ con người, nhà cửa và ruộng rẫy khỏi thiên tai như bão, ngập lụt và sóng triều. Những thân cây, cành và rễ của rừng ngập mặn có vai trò như những rào cản giúp giảm những ảnh hưởng của sóng, ngập lụt và gió mạnh.
Giảm xói lở và bảo vệ đất
Rừng ngập mặn có một hệ thống lớn các thân, cành và rễ giúp bảo vệ bờ biển và đất đai khỏi xói lở và ảnh hưởng của sóng. Thường tại những khu vực bờ sông và bờ biển nơi rừng ngập mặn đã bị tàn phá thì hiện tượng xói lở xảy ra rất mạnh. Hệ thống lớn các thân, cành và rễ còn giúp cho quá trình lấn biển giúp tăng diện tích đất bằng cách giữ lại và kết dính những vật liệu phù sa từ sông mang ra. Cũng bằng cách này mà cây rừng ngập mặn tự xây dựng cho mình môi trường sống thích hợp. Loài Mắm là cây tiên phong trong việc phát triển rừng ngập mặn, chúng giúp cốt kết đất bùn loãng và giữ phù sa ở lại, sau đó là các loài khác phát triển theo như Đước, Bần, ô rô, quá trình xảy ra liên tục, rừng ngập mặn ngày càng phát triển hướng ra biển và các bãi bồi ven biển.
Giảm ô nhiễm
Rừng ngập mặn giúp lọc bỏ các chất phú dưỡng, trầm tích và chất ô nhiễm ra khỏi đại dương và sông ngòi. Vì thế, chúng giúp lọc sạch nước cho những hệ thống sinh thái xung quanh (như hệ sinh thái san hô, cỏ biển). Rừng ngập mặn được ví như là quả Thân của môi trường. Bằng các quá trình sinh hóa phức tạp, rừng ngập mặn phân giải, chuyển hóa, hấp thụ các chất độc hại.
Giảm tác động của biến đổi khí hậu
Với việc biến đổi khí hậu được dự đoán là sẽ làm tăng mức độ xảy ra của những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão và lũ lụt, rừng ngập mặn sẽ trở nên đặc biệt quan trọng để bảo vệ con người, nhà cửa và ruộng đồng khỏi những thiên tai này. Rừng ngập mặn còn có tác dụng rất tốt trong việc loại thải khí nhà kính (vốn là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu) ra khỏi bầu khí quyển.
Nguồn sống cho động vật
Rừng ngập mặn cung cấp chỗ cư ngụ và nguồn thức ăn cho rất nhiều loại cá, động vật có vỏ (như nghêu, sò,cua,ốc..), chim và động vật có vú. Một vài động vật có thể được tìm thấy trong rừng ngập mặn bao gồm: nhiều loại cá, chim, cua, sò huyết, nghêu, hàu, tôm, ốc, chuột, dơi và khỉ. Rừng ngập mặn còn là khu vực kiếm ăn, nơi sinh sản và nuôi dưỡng quan trọng của nhiều loài cá, động vật có vỏ và tôm. Lá và thân cây ngập mặn, khi bị phân hủy sẽ cung cấp những vụn chất hữu cơ vốn là nguồn thức ăn quan trọng cho các loài thủy sinh. Tương tự như vậy, các loài sinh vật phù du sống dưới rễ của các cây ngập mặn là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều loài cá.
Rừng ngập mặn đặc biệt quan trọng đối với các loài cá đánh bắt thương mại, vốn có rất nhiều loài đã đẻ trứng trong rễ cây rừng ngập mặn nhằm mục đích bảo vệ con của chúng. Quan trọng hơn, 75% các loài cá đánh bắt thương mại ở vùng nhiệt đới trải qua một khoảng thời gian nào đó trong vòng đời của mình tại các khu rừng ngập mặn.
Rừng ngập mặn đóng một vai trò đặc biệt trong các hệ thống lưới thức ăn phức tạp. Điều này có nghĩa là sự phá hủy rừng ngập mặn có thể có tác động rất xấu và rộng đến đời sống thủy sinh và đại dương. Sự suy kiệt của rừng ngập mặn là một nguyên nhân chính dẫn đến suy kiệt đời sống thủy sinh vì rừng ngập mặn không còn để đóng vai trò như vườn ươm hay chỗ kiếm ăn cho những sinh vật thủy sinh nhỏ. Kết quả là, trữ lượng thủy sản không thể được tái tạo. Sản lượng cá, tôm, động vật có vỏ và cua sẽ giảm khi diện tích rừng giảm. Không có các sinh vật thủy sinh nhỏ vào thời điểm này nghĩa là không có nguồn cá để đánh bắt trong tương lai.
Mối đe dọa và bảo vệ
Mối nguy hại
Trong quá khứ, tầm quan trọng của rừng ngập mặn cho môi trường và bảo vệ con người không được biết đến rõ ràng và kết quả là nhiều khu rừng ngập mặn trên khắp thế giới bị tàn phá. Khoảng phân nửa diện tích rừng ngập mặn của thế giới đã bị phá hủy trong suốt 50 năm qua. Ở Việt Nam, trong suốt giai đoạn từ năm 1969 đến 1990, khoảng 33% diện tích rừng ngập mặn của nước ta đã bị phá hủy, khiến cho diện tích che phủ rừng giảm từ 425.000 ha còn 286.400 ha. Vào năm 2002 diện tích rừng ngập mặn chỉ còn 155.290 ha. Tiếc thay, rừng ngập mặn vẫn đang bị tàn phá thông qua một số các hoạt động của cả con người và các quá trình tự nhiên.
Sự phá hủy bởi con người
Mối đe dọa lớn nhất đến những khu rừng ngập mặn là sự tàn phá của con người. Nhiều người phá hủy rừng ngập mặn bằng cách chặt cây để lấy củi và gỗ, hay lấy đất để nuôi tôm, trồng cây cho những mục đích xây dựng và phát triển khác. Một số người khác nhổ rễ và tàn phá cây rừng ngập mặn để đào sâm đất (con đồm độp) và bắt cua. Một vài cách thức bắt thủy sản cũng có hại đến rừng ngập mặn như kéo và đẩy lưới gần cây con sẽ làm tróc hay bật rễ của chúng. Ngoài ra chiến tranh và sử dụng vũ khí hóa học đã phá hủy một diện tích lớn rừng ngập mặn của Việt Nam cũng như Thế giới trong quá khứ.
Các hóa chất và chất ô nhiễm
Rừng ngập mặn cũng có thể bị tổn thương hoặc phá hủy bởi những hóa chất và chất ô nhiễm như thuốc trừ sâu và phân bón. Những chất này đi theo nước chảy tràn từ đồng ruộng, hay nước thải từ các khu nuôi trồng thủy sản và các thành phố, theo các con sông và kênh rạch để tập trung ở rừng ngập mặn. Những mối đe dọa tự nhiên rừng ngập mặn còn có thể bị đe dọa bởi những cơn sóng lớn hay thảm họa tự nhiên như các cơn bão. Sâu và bệnh cũng gây ảnh hưởng xấu đến cây rừng ngập mặn. Con hàu gây tổn hại cho các cây con bằng cách bám mình vào thân và rễ cây.
Biến đổi khí hậu
Trong tương lai khi mực nước biển dâng do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu sẽ đe dọa đến rừng ngập mặn trên khắp thế giới. Khi nước biển dâng, một số khu vực sinh sống của một số cây rừng ngập mặn sẽ bị ngập nhiều hơn (hay bị quá mặn) cho loài cây rừng đó sinh sống. Nếu cây ngập mặn không thể di chuyển lên vùng đất cao hơn, do bị cản bởi đê hay các vật cản khác, cây sẽ không có chỗ nào để sống và bị chết ngập. Biến đổi khí hậu cũng được dự đoán là sẽ tăng cường độ những sự kiện thời tiết cực đoan như bão tố và lũ lụt. Càng nhiều lần xuất hiện những sự kiện như vậy thì rừng càng bị tổn thương (do không kịp phục hồi).
Hoạt động bảo vệ
Rất nhiều chính phủ trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam đã đặt ra những luật để bảo vệ rừng ngập mặn, và đã bắt đầu thực hiện những chương trình trồng lại rừng để tăng diện tích bao phủ bởi rừng ngập mặn. So với mức độ bao phủ rừng vào khoảng 155.290 ha của năm 1990, năm 2005 Việt Nam đã trồng và đạt được diện tích rừng ngập mặn là 209.741 ha. Các hoạt động tuyên truyền khuyến khích bảo vệ rừng ngập mặn bao gồm:
- Cẩn thận khi đi trong rừng ngập mặn: không vô tình làm gãy cây rừng hay giẫm đạp lên cây con khi đi vào trong rừng, hay lúc đi đánh bắt tài nguyên như cua, tôm và cá.
- Giữ sạch môi trường nước: không vứt rác thải vào sông, rạch hay biển, bởi vì nó sẽ trôi theo dòng nước để đến rừng ngập mặn.
- Không sử dụng các hóa chất và thuốc trừ sâu bởi khi theo dòng nước thải ra biển chung đặc biệt nguy hiểm cho các khu rừng ngập mặn.
- Tổ chức và vận động tham gia vào các sự kiện trồng rừng ngập mặn.