Lý Uân (李熅, ? - 887), là một người đòi hỏi hoàng vị của nhà Đường. Trong một thời gian ngắn, với sự giúp đỡ của quân phiệt Chu Mai, ông đã tuyên bố là hoàng đế trong hai tháng vào năm 886-887 tại kinh thành Trường An, trong cuộc tranh chấp với Đường Hy Tông. Thời gian trị vì ngắn ngủi của Lý Uân chấm dứt khi thuộc hạ của Chu Mai là Vương Hành Du nổi dậy và giết chết Chu Mai. Lý Uân chạy đến lãnh địa của quân phiệt Vương Trọng Vinh, Vương Trọng Vinh đã giết chết Lý Uân và dâng thủ cấp của Lý Uân cho Đường Hi Tông.
Thân thế
Cụ của Lý Uân là Tương vương Lý Quang (李僙) - một hoàng tử của Đường Túc Tông, ông nội của Lý Uân là Lý Tuyên (李宣)- được phong tước Y Ngô vương.
Năm 885, trong thời gian trị vì của Đường Hi Tông, hoạn quan Điền Lệnh Tư tranh chấp với Hà Trung tiết độ sứ Vương Trọng Vinh do muốn đoạt lại quyền kiểm soát các đầm muối tại Hà Trung cho triều đình. Vương Trọng Vinh quay sang liên kết với tiết độ sứ người Sa Đà Lý Khắc Dụng. Điền Lệnh Tư phản ứng bằng việc liên kết với Tĩnh Nan tiết độ sứ Chu Mai và Phượng Tường tiết độ sứ Lý Xương Phù. Quân triều đình dưới quyền kiểm soát của Điền Lệnh Tư đã hội quân với Chu Mai và Lý Xương Phù để tiến công Vương Trọng Vinh; Vương Trọng Vinh và Lý Khắc Dụng đã đánh bại liên quân đối phương vào khoảng tết năm 886. Khi quân của Lý Khắc Dụng và Vương Trọng Vinh tiến đến gần Trường An, Đường Hi Tông và Điền Lệnh Tư thoạt đầu chạy đến Phượng Tường, sau đó chạy đến Hưng Nguyên (興元, nay thuộc Hán Trung, Thiểm Tây). Trong khi đó, Chu Mai và Lý Xương Phù do lo sợ Lý Khắc Dụng và Vương Trọng Vinh nên đã quay sang chống Điền Lệnh Tư và Đường Hi Tông, phái quân đi bắt Đường Hi Tông song không thành công.
Khi Đường Hy Tông chạy khỏi Trường An, Lý Uân tháp tùng hoàng đế đến Phượng Tường, song đã không thể kịp theo đến Hưng Nguyên. Khi ông ở tại Tuân Đồ dịch (遵塗驛, gần Phượng Tường), các binh sĩ của Chu Mai đã bắt được ông và giải ông đến Phượng Tường. Thời điểm này, Chu Mai cho rằng Điền Lệnh Tư có ảnh hưởng xấu lên Đường Hi Tông, còn mình sẽ nhận được sự ủng hộ của các quân phiệt khác nếu ủng hộ một hoàng đế mới, Chu Mai tham khảo ý kiến của tể tướng Tiêu Cấu. Mặc dù Tiêu Cấu phản đối song Chu Mai đã bỏ qua và buộc các quan lại triều đình ở tại Phượng Tường thượng biểu tiến cử Lý Uân tức vị. Tuy nhiên, thoạt đầu Lý Uân chỉ chấp thuận làm nhiếp chính. Ngoài các quan lại triều đình Đường đang ở Phượng Tường, Hoài Nam tiết độ sứ Cao Biền, Vương Trọng Vinh, và Thôi An Tiềm cũng thượng biểu ủng hộ Lý Uân. Quân của Chu Mai hộ tống các quan lại triều đình và Lý Uân trở về Trường An, nhằm chuẩn bị chính thức tôn Lý Uân làm hoàng đế. Tuy nhiên, Lý Khắc Dụng lại từ chối đề nghị của Chu Mai và Lý Uân mà ủng hộ Đường Hy Tông; Lý Xương Phù tức giận vì không được tham gia vào cơ cấu triều đình mới nên cũng thượng biểu ủng hộ cho Đường Hy Tông.
Trị vì ngắn ngủi
Vào mùa đông năm 886, sau khi các quan lại triều đình tiếp tục thúc giục, Lý Uân đã chấp thuận tức vị. Ông đề nghị Đường Hy Tông đang lưu vong làm Thái thượng hoàng.
Trong khi đó, lúc này Điền Lệnh Tư đã từ bỏ chức vụ chỉ huy Thần Sách quân và đến Tây Xuyên với thân thích. Người kế nhiệm Điền Lệnh Tư là Dương Phục Cung đã ra một thông cáo đến vùng Quan Trung rằng bất kỳ ai có thể giết Chu Mai sẽ được thay thế Chu Mai làm Tĩnh Nan tiết độ sứ. Thuộc hạ của Chu Mai là Vương Hành Du bị cám dỗ, ngoài ra cũng lo sợ vì không hoàn thành sứ mệnh được Chu Mai giao phó là chiếm Hưng Nguyên và bắt Hy Tông, nên đã quyết định hành động. Vương Hành Du tiến về Trường An, bắt giữ và giết chết Chu Mai. Bùi Triệt và Trịnh Xương Đồ đã hộ tống Lý Uân đến Hà Trung. Tuy nhiên, lúc này Vương Trọng Vinh đã chấp thuận quy phục Đường Hy Tông, ông ta giả bộ nghênh tiếp song sau đó đã bắt giữ và xử trảm Lý Uân. Vương Trọng Vinh đưa thủ cấp của Lý Uân đến trình Đường Hy Tông. Thoạt đầu, Đường Hy Tông đã tổ chức đại lễ mừng Lý Uân bị giết, song do nghe theo lời của Thái thường bác sĩ Ân Doanh Tôn rằng không thể ăn mừng việc một hoàng thân quốc thích qua đời, Đường Hy Tông thay vào đó phế Lý Uân làm thứ nhân và chôn cất thủ cấp của ông.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Uân** (李熅, ? - 887), là một người đòi hỏi hoàng vị của nhà Đường. Trong một thời gian ngắn, với sự giúp đỡ của quân phiệt Chu Mai, ông đã tuyên bố là
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Lý Nhân Đạt** (chữ Hán: 李仁達; ?- 947), còn gọi là **Lý Hoằng Nghĩa** (李弘義) (945-946), **Lý Hoằng Đạt** (李弘達) (946), **Lý Đạt** (李達) (946-947), và **Lý Nhụ Uân** (李孺贇) (947), là một quân phiệt
**Ngũ uẩn**, cũng gọi là **Ngũ ấm** (五陰), là năm nhóm tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là
**Cây gạo làng Diên Uẩn** (hay làng Dương Lôi, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh) được xem là sinh vật gắn liền với một số sự kiện lịch sử Việt Nam thế kỷ 10, thế
**Bài thơ sấm trên cây gạo làng Diên Uẩn**, tương truyền tác giả là sư Vạn Hạnh, mang nội dung tiên đoán về tên các triều đại cai trị trong thời phong kiến Việt Nam.
**Lý Quỹ** (, ? - 619), tên tự **Xử Tắc** (處則), là hoàng đế của nước Lương thời Tùy mạt Đường sơ. Ông cai quản vùng lãnh thổ ở bờ tây Hoàng Hà thuộc tỉnh
**Lý Mậu Trinh** (, 856–17 tháng 5 năm 924), nguyên danh **Tống Văn Thông** (), tên tự **Chính Thần** (正臣), là người cai trị duy nhất của nước Kỳ thời Ngũ Đại Thập Quốc trong
**Cao Ly Minh Tông** (Hangul: 고려 명종, chữ Hán: 高麗 明宗; 8 tháng 11 năm 1131 – 3 tháng 12 năm 1202, trị vì 1170 – 1197) là quốc vương thứ 19 của Cao Ly.
**Cao Ly Thần Tông** (Hangul: 고려 신종; chữ Hán: 高麗 神宗; 11 tháng 8 năm 1144 – 15 tháng 2 năm 1204, trị vì 1197 – 1204) là quốc vương thứ 20 của vương triều
**Cao Ly Nghị Tông** (Hangul: 고려 의종, chữ Hán: 高麗 毅宗; 23 tháng 5 năm 1127 – 7 tháng 11 năm 1173, trị vì 1146 – 1170) là quốc vương thứ 18 của Cao Ly.
**Cao Ly Khang Tông** (Hangul: 고려 강종, chữ Hán: 高麗 康宗; 10 tháng 5 năm 1152 – 26 tháng 8 năm 1213, trị vì 1211 – 1213) là quốc vương thứ 22 của vương triều
**Cao Ly Hi Tông** (Hangul: 고려 희종; chữ Hán: 高麗 熙宗; 21 tháng 6 năm 1181 – 31 tháng 8 năm 1237, trị vì 1204 – 1211) là quốc vương thứ 21 của vương triều
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Lý Nhật Quang** (chữ Hán: 李日㫕) (995-1057) là một hoàng tử và quan nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ
**Bang giao Đại Việt thời Lý** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Lý từ năm 1009 đến năm 1225 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 1009, Lý
**Lý Tư Gián** (; ?- 908), là một quân phiệt người Đảng Hạng vào những năm cuối triều Đường và sau đó là triều Hậu Lương thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông cai quản Định
**Lý Hề** (李谿) (theo _Tư trị thông giám_ và _Cựu Ngũ Đại sử_) hay **Lý Khê** (李磎) (theo _Cựu Đường thư_ và _Tân Đường thư_) (? - 4 tháng 6 năm 895), tên tự **Cảnh
**Lý Tư Cung** (李思恭) (? - 886?), nguyên tên là **Thác Bạt Tư Cung** (拓拔思恭), là một quân phiệt người Đảng Hạng vào cuối thời nhà Đường. Ông có đóng góp trong chiến dịch trấn
**Lý Ngọc Cầm** (chữ Hán: 李玉琴; 15 tháng 7, năm 1928 – 24 tháng 4, năm 2001), cũng gọi **Mạt Đại Hoàng nương** (末代皇娘), là người vợ thứ 4 của Tuyên Thống Đế Phổ Nghi,
**Doãn Uẩn** (chữ Hán: 尹蘊, 1795-1850), tự là **Nhuận Phủ**, **Ôn Phủ**, hiệu là **Nguyệt Giang**, **Tĩnh Trai**, là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị,
**_Lý Công Uẩn: Đường tới thành Thăng Long_** là một bộ phim truyền hình lịch sử Việt Nam dài 19 tập, với nội dung phim xoay quanh con người và sự nghiệp vua Lý Công
**Đoàn Công Uẩn** (?-?)- một mãnh tướng thời Lê, tên dân gian là Đoàn mãnh tướng. ## Gia thế Đoàn Công Uẩn hay Đoàn Uẩn là con trai của Đoàn Phúc Lanh. Đoàn Phúc Lanh
**Lý Nga Tư** (chữ Hán: 李娥姿; 536–588) là một phi tần của Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung và là sinh mẫu của Bắc Chu Tuyên Đế vũ Văn Uân, hoàng đế Bắc Chu
**Hoàng Ngọc Uẩn** (黃玉蘊 hay 黃玉韞, ? - 1817), tự **Hối Sơn**; là một văn nhân trong nhóm _Bình Dương thi xã_ ở đất Gia Định xưa, và là văn thần của triều Nguyễn trong
**Uẩn Trứ** (; 1699 – 1778) còn có tên là **Vân Trụ** (云柱) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết mạo
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
Thanh xốp uấn tóc Có thể sử dụng với tóc khô hoặc ướt Dễ sử dụng, không cần ghim kẹp Bề mặt mịn màng bảo vệ tóc khỏi gãy rụng Làm từ bọt xốp mềm,
Combo Tám Triều Vua Lý Trọn Bộ 4 Tập viết về nhà Lý từ khi khởi nghiệp đến khi kết thúc 1009 1225 trải dài 216 năm trong tiến trình lịch sử VN. Sách cho
Combo Tám Triều Vua Lý Trọn Bộ 4 Tập viết về nhà Lý từ khi khởi nghiệp đến khi kết thúc 1009 1225 trải dài 216 năm trong tiến trình lịch sử VN. Sách cho
Combo Tám Triều Vua Lý Trọn Bộ 4 Tập viết về nhà Lý từ khi khởi nghiệp đến khi kết thúc 1009 1225 trải dài 216 năm trong tiến trình lịch sử VN. Sách cho
**Lý** (李) là một họ của người Đông Á. Họ này tồn tại ở các nước Trung Quốc ("Li/Lee"), Hàn Quốc ("Lee", "I", "Yi" hoặc "Rhee") và Bắc Triều Tiên ("Ri" ), Đài Loan ("Lee"),
**Lý Thần Vũ Đế** trong Tiếng Việt có thể là: ## Danh sách * Đại Lý Thần Vũ Đế (大理神武帝) Đoàn Tư Bình (quân chủ khai quốc của nước Đại Lý ở tỉnh Vân Nam
**Lý An Dân** (chữ Hán: 李安民, 427 - 486), người huyện Thừa, quận Lan Lăng , tướng lãnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề. Vì Lý Duyên Thọ biên soạn Nam sử vào đời Đường,
**Lý Thái Tổ** trong Tiếng Việt có thể là những vị quân chủ sau: ## Danh sách *Đại Lý Thái Tổ (大理太祖) Đoàn Tư Bình *Lý Thái Tổ (李太祖) Lý Công Uẩn *Triều Tiên Thái
**Lê Đình Lý** (chữ Hán: 黎廷理; 1790 - 1858) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là vị tướng _đầu tiên_ của triều đại này đã tử trận trong công cuộc
**Hiển Khánh vương** (Chữ Nho: 顯慶王) là cha của Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Tên của ông không được ghi chép lại trong sách sử,
**Chu Mai** (硃玫/朱玫, ? - 7 tháng 1 năm 887) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông từng ủng hộ Đường Hy Tông và hoạn quan nhiều quyền lực Điền Lệnh Tư,
Năm 1010, triều đại nhà Lý mở ra chương mới trong lịch sử phong kiến Việt Nam với dấu ấn Thăng Long địa linh nhân kiệt. Dưới triều đại nhà Lý, đất nước Đạt Việt
Dứt Điểm Mụn Lưng, Viêm Nang Lông, Chân Tay và Vùng Kín Tại Nhà. Dạng Xịt Thẩm Thấu Nhanh Cấp Tốc. *LƯU Ý* Dùng Theo HƯỚNG DẪN Để HIỆU QUẢ CAO NHẤT! Cam Kết Rõ
**Vô ngã** (無我, sa. _anātman_, pi. _anattā_), là một trong Ba pháp ấn (sa. _trilakṣaṇa_) (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo Phật giáo. Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo, cho
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Khổ** (chữ Hán: 苦, tiếng Phạn: _duḥkha_, tiếng Pali: _dukkha_) là một khái niệm quan trọng của Phật giáo, là cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba tính chất của sự
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
Dứt Điểm Mụn Lưng, Viêm Nang Lông, Chân Tay và Vùng Kín Tại Nhà. Dạng Xịt Thẩm Thấu Nhanh Cấp Tốc. *LƯU Ý* Dùng Theo HƯỚNG DẪN Để HIỆU QUẢ CAO NHẤT! Cam Kết Rõ
Dứt Điểm Mụn Lưng, Viêm Nang Lông, Chân Tay và Vùng Kín Tại Nhà. Dạng Xịt Thẩm Thấu Nhanh Cấp Tốc. *LƯU Ý* Dùng Theo HƯỚNG DẪN Để HIỆU QUẢ CAO NHẤT! Cam Kết Rõ
**Tâm sở** (zh. 心所, sa., pi. _cetasika_), hoặc **Tâm sở hữu pháp** (sa. _caittadharma_), là những yếu tố phụ thuộc vào Tâm, gắn liền với một nhận thức (sa. _vijñāna_) – nhận thức đây cũng
**Lưu Khánh Đàm** (Hán Tự : 劉慶覃, ? - 1136) là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, phục vụ trong các đời vua Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông. ##
**Vi Diệu Pháp** là một tập hợp kinh điển Phật giáo được hình thành vào thế kỷ 3 TCN về những giáo lý của Phật giáo trong Tam tạng. Theo Phật giáo, Vi Diệu Pháp