thumb|1960s
Lăng Ba (tiếng Anh: Ivy Ling Po, chữ Hán: 凌波; sinh ngày 16 tháng 11 năm 1939), tên thật là Hoàng Dụ Quân (黃裕君), sinh ra ở Sán Đầu, Quảng Đông. Bà được công chúng biết đến rộng rãi với vai trò một diễn viên và nghệ sĩ ca kịch. Trong sự nghiệp diễn xuất, Lăng Ba ghi đậm dấu ấn của mình qua các bộ phim Hoàng Mai nổi tiếng ở thập niên 1960, đặc biệt là Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài (The Love Eterne) năm 1963. Bộ phim này cũng chính là cột mốc lớn đánh dấu thời điểm bà từ một diễn viên ít tên tuổi sau một đêm trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời điện ảnh châu Á.
Trước khi đến với cái tên "Lăng Ba", Hoàng Dụ Quân sử dụng nhiều tên gọi khác nhau theo từng thời điểm. Lúc còn nhỏ, bà bị bán làm con nuôi cho một gia đình ở Hạ Môn, lúc đó bà có tên là Quân Hải Đường (君海棠). Khi Dụ Quân ở tuổi thiếu niên, người mẹ nuôi bắt bà phải theo nghiệp diễn, bước chân vào ngành điện ảnh Hong Kong. Trong những vai diễn đầu tiên, bà đóng các phim tiếng Hạ Môn Phúc Kiến (Amoy Hokkien) và sử dụng nghệ danh là Tiểu Quyên (小娟), sau đó thì chuyển sang đóng các phim tiếng Quảng Đông dưới cái tên Thẩm Nhạn (沈雁). Cuối cùng, bà tham gia vào hãng phim Thiệu thị Huynh đệ (Shaw Brothers Studio), đóng các phim tiếng Quan Thoại và chính thức lấy nghệ danh Lăng Ba (凌波), tiến đến địa vị một minh tinh đầy danh vọng.
Hơn thế nữa, bằng tài năng và tên tuổi của mình, Lăng Ba đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn loại hình nghệ thuật ca kịch Hoàng Mai trước guồng xoay của nền công nghiệp giải trí.
Sự nghiệp
Thập niên 1950 – 1960
Hoàng Dụ Quân sinh ra tại Sán Đầu và có một khoảng thời gian sống tại Hạ Môn, Trung Quốc. Năm 1949, bà cùng mẹ nuôi trốn sang Hong Kong. Bà bắt đầu đóng phim năm 12 tuổi với vai diễn đầu tiên trong một bộ phim có tên là Love of Young People (1951). Lúc đó bà lấy nghệ danh Tiểu Quyên. Giai đoạn này, bên cạnh việc đóng hơn 50 bộ phim tiếng Phúc Kiến, bà cũng tham gia lồng tiếng cho nhiều công ty điện ảnh và đặc biệt là các bộ phim kịch Hoàng Mai của hãng Thiệu thị Huynh đệ. Năm 1962, nhờ việc lồng tiếng cho nhân vật Giả Bảo Ngọc trong bộ phim Hồng lâu mộng của Thiệu Thị, tài năng của Dụ Quân được đạo diễn Lý Hàn Tường (李翰祥) chú ý. Ngay lập tức, ông chọn bà vào vai nam chính Lương Sơn Bá trong bộ phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài mà ông làm đạo diễn (đóng cặp với nữ minh tinh nổi tiếng lúc bấy giờ là Lạc Đế). Từ bộ phim này, bà bắt đầu lấy nghệ danh Lăng Ba. Phim đạt thành công vang dội. Các giám khảo tại giải Kim Mã lần thứ 2 đã vô cùng ấn tượng với diễn xuất cũng như tài giả trai của Lăng Ba, đến nỗi họ phải trao thêm một "giải thưởng đặc biệt dành cho nam diễn viên xuất sắc nhất".
Một năm sau đó, nhờ vai nữ tướng Hoa Mộc Lan trong bộ phim cùng tên, Lăng Ba đã thắng giải Diễn viên xuất sắc nhất trong Liên hoan phim châu Á lần thứ 11, đồng thời mang về cho mình danh hiệu Nữ hoàng Điện ảnh châu Á. Tại Liên hoan phim châu Á lần thứ 12, Lăng Ba tiếp tục giành được giải thưởng Tài năng đa năng nhất (Most Versatile Talent) với vai hoàng tử trong bộ phim Vạn cổ lưu phương (The Grand Substitution – 1965) và vai thư sinh trong bộ phim Ngư mỹ nhân (The Mermaid – 1965). Từ đó cái tên Lăng Ba trở thành bảo chứng doanh thu cho thể loại phim kịch Hoàng Mai và thường được giao diễn vai nam. Với thành tích bất bại qua nhiều năm, bà luôn nằm trong danh sách mười đại minh tinh của điện ảnh Hồng Kông thông qua các cuộc bình chọn thường niên của báo giới. Đặc biệt, bà luôn đứng vị trí số một trong các cuộc bình chọn của tạp chí Cinemart.
Cuối thập niên 60, phim kịch Hoàng Mai rơi vào giai đoạn thoái trào, Lăng Ba đã thử chuyển hướng qua các vai diễn thuộc thể loại phim võ thuật cũng như phim đương đại và đạt được nhiều thành công. Nhờ vai diễn một người vợ bất hạnh (đóng cặp với diễn viên Quan San) trong bộ phim Phong hoả vạn lý tình (Too Late for Love – 1967), bà giành được giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất của Liên hoan phim Kim Mã.
Thập niên 1970 – 1980
Năm 1975, thủ vai Long Dụ hoàng hậu trong bộ phim Khuynh quốc khuynh thành (Empress Dowager) của đạo diễn Lý Hàn Tường, Lăng Ba thắng giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Điều đáng chú ý là đất diễn trong phim không nhiều, nhưng bà vẫn giành được giải thưởng này trước một sự cạnh tranh rất khốc liệt. Cuối năm 1975, sau khi kết thúc hợp đồng với hãng Thiệu thị, bà bắt đầu tham gia đóng các bộ phim truyền hình và một số phim điện ảnh khác cùng chồng là diễn viên Kim Hán (金漢). Trong số đó, vai diễn trong bộ phim Ngã phụ, ngã phu, ngã tử (My Father, My Husband, My Son) – kể về cuộc đời thăng trầm của một phụ nữ từ lúc thanh xuân cho đến tuổi xế chiều – đã mang về cho bà giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất của Liên hoan phim Kim Mã. Lần cuối cùng bà xuất hiện với tư cách diễn viên là trong bộ phim Kim Yến Tử (Golden Swallow – 1987), vai một phù thủy độc ác. Sau đó Lăng Ba chính thức giải nghệ và di cư cùng gia đình (chồng và ba con) đến Toronto, Ontario, Canada năm 1989.
Thập niên 2000
Năm 2002, Lăng Ba có một cuộc tái xuất ngoạn mục khi kết hợp cùng nữ diễn viên kỳ cựu của Thiệu Thị là Hồ Cẩm (胡錦) dựng lại vở Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài. Hai diễn viên ngày trước vào vai Tứ Cửu và Ngân Tâm là Lý Côn (李昆) và Nhậm Khiết (任洁) cũng tham gia vào phiên bản này với vai trò tương ứng. Sau đó Lăng Ba lưu diễn rộng rãi vở kịch dưới hình thức sân khấu tại các nước Malaysia, Singapore, Đài Loan và Hoa Kỳ. Cũng vì sự thành công của chuỗi lưu diễn, hai năm sau, Lăng Ba quyết định dựng lại vở kịch ở Đài Loan để nói lời tri ân đến khán giả. Ngoài ra, hai bộ đĩa DVD liên quan cũng được Rock Record xuất bản vào năm 2003.
Thừa thắng xông lên, bà đã thực hiện nhiều buổi biễu diễn ở Đài Loan, Mỹ và Malaysia. Trong số đó, hai buổi hoà nhạc tại Thành phố Giải Trí Genting ở Malaysia năm 2005 đã trở thành một kỷ niệm đáng nhớ khi có sự góp mặt của Hồ Cẩm, Tần Tường Lâm và Nhạc Hoa – những ngôi sao điện ảnh một thời và cũng là những người bạn tri kỷ của Lăng Ba. Cũng trong sự kiện này, một lượng khán giả lớn từ khắp các nước Mỹ, Úc, Đài Loan và Hồng Kông đã hội tụ về đây để tỏ lòng ái mộ.
Năm 2006, Lăng Ba trở về Hong Kong để biểu diễn cho buổi hoà nhạc Everlasting Golden Hits (gồm nhiều nghệ sĩ tham gia) tổ chức ở Hương Cảng Thể dục quán (Hong Kong Coliseum). Tại đây, bà đã trình diễn những bài hát tủ của mình trích từ phim Lương – Chúc, với sự phối hợp của Uông Minh Thuyên (汪明荃) trong vai Chúc Anh Đài. Không những vậy, bà còn khiến khán giả phấn kích khi tái hiện hình ảnh mạnh mẽ của nhân vật Giao Đạo (郊道) trong vở Huyết thủ ấn (血手印 – The Crimson Palm 1964). Cũng từ đó, các ca khúc gắn liền với tên tuổi của Lăng Ba được sống lại thông qua các bản cover của Tĩnh Đình (静婷), Chân Ni (甄妮), Dao Tố Dung (姚蘇蓉) trong nhiều năm liên tiếp.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright=1.35|Hành lang Ba Lan giai đoạn 1923–1939 upright=1.35|thumb|[[Phổ hoàng gia|Phổ Ba Lan giai đoạn năm 1466–1772]] thumb|upright=1.35|Đa số [[người Ba Lan|Ba Lan (xanh lục) và các khu vực của Đức trong Hành lang (điều tra
thumb|1960s **Lăng Ba** (tiếng Anh: Ivy Ling Po, chữ Hán: 凌波; sinh ngày 16 tháng 11 năm 1939), tên thật là **Hoàng Dụ Quân** (黃裕君), sinh ra ở Sán Đầu, Quảng Đông. Bà được công
**Lăng Bà Vú** _(hay **Lăng Nhũ Mẫu**)_ tọa lạc tại phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lăng Bà Vú là một công trình kiến trúc chứa đựng nhiều giá trị về
**Đại lăng Ba Vì** (danh pháp: **_Macropanax baviensis_**) là một loài thực vật có hoa trong Họ Cuồng cuồng. Loài này được (R.Vig.) C.B.Shang miêu tả khoa học đầu tiên năm 1983.
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Bełżec** () là một ngôi làng ở Tomaszów Lubelski, Lublin Voivodeship, ở miền đông Ba Lan. Đó là khu hành chính của Gmina Bełżec. Nó nằm cách khoảng về phía nam của Tomaszów Lubelski và
Lăng Quang Trung là nơi án táng hoàng đế Quang Trung (1753-1792) vốn bị vua Gia Long cho phá hủy là địa điểm không được ghi chép rõ ràng trong lịch sử vì sự tồn
**Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài** là một truyền thuyết Trung Quốc về chuyện tình đẹp nhưng đầy bi kịch của một đôi trai gái, **Lương Sơn Bá** (梁山伯) và **Chúc Anh Đài** (祝英台)
**Đường cao tốc S6** (ở Ba Lan _droga ekspresowa S6_) là một con đường lớn ở Ba Lan đã được lên kế hoạch chạy từ tuyến đường cao tốc A6 ở Szczecin, qua Goleniów ở
**Lịch sử hành chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu** có thể lấy mốc từ năm 1900 với sự kiện cuộc cải cách hành chính ở Nam Kỳ, hạt tham biện Bà Rịa đổi thành
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt** (tên chữ: **Thượng Công Miếu**, chữ Hán: 上公廟, tục gọi là **Lăng Ông - Bà Chiểu**) là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện
**Khởi nghĩa Ba Đình** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
Đình Mỹ Phước **Đình làng Nam Bộ** (người miền Nam hay gọi tắt là **đình thần**) là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn. Nhìn chung ở Nam
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Trận Bình Ba** (6–8 tháng 6 năm 1969), còn được gọi là **Chiến dịch Hammer**, là một trận chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Sự kiện khởi đầu với việc Tiểu đoàn 5, Trung đoàn
**Chủ nghĩa lãng mạn ở Ba Lan**, một thời kỳ văn học, nghệ thuật và trí tuệ trong sự phát triển của văn hóa Ba Lan, bắt đầu vào khoảng năm 1820, trùng hợp với
**Lăng Thiệu Trị** có tên chữ là **Xương Lăng** (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận
Một đòn đá thẳng trong võ Tân Khánh Bà Trà đang được các môn sinh luyện tập. **Tân Khánh Bà Trà** hay **Bà Trà - Tân Khánh** hay **Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà** (người
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
**Chi Linh lăng** hay chi **Cỏ ba lá thập tự** (danh pháp khoa học: **_Medicago_**) là một chi thực vật trong họ Đậu (_Fabaceae_), có hoa sống lâu năm, chủ yếu được nói đến như
**Hồ Ba Bể** là một hồ nước ngọt ở Thái Nguyên, Việt Nam. Đây là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
**Lăng Dục Đức** tên chữ **An Lăng** (安陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Đức, vị vua thứ năm của triều đại nhà
Chính diện lăng xưa, có bình phong án ngữ trước nếp bái đường. Sau bình phong là phần chính của lăng với mái cao nhô lên, trên đỉnh có thánh giá Lăng Cha Cả nay
nhỏ|phải|Một hình ảnh tưởng tượng về Lăng mộ Mausolus, từ một bức tranh khắc năm 1572 của [[Martin Heemskerck (1498-1574), ông đã tái hiện nó dựa trên những lời miêu tả]] nhỏ|phải|Di tích của Lăng
**Làng Liên Xương** (hay còn gọi là Làng Thương Bi, Làng Bi) là một ngôi làng cổ của tổng Phi Mô, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Nay thuộc xã
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
**Lăng Thoại Thánh** (瑞聖陵), còn gọi là **lăng Thụy Thánh**, nằm trên đồi thông cạnh chân dãy núi Thiên Thọ, trong quần thể lăng Gia Long (Định Môn, Hương Trà) là lăng mộ của Hiếu
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Chiến khu Ba Đình** là một di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia ở Việt Nam, nằm trên địa bàn xã Ba Đình, nằm cách huyện lỵ huyện Nga Sơn, Thanh Hóa khoảng
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**Lăng đá Quận Vân** là một cụm công trình kiến trúc khu lăng mộ Đô đốc Đại giang Quận công Đỗ Bá Phẩm, được xây dựng từ năm 1733 tại thôn Nỏ Bạn, xã Vân
**Lăng Xương Thọ** (chữ Nho: 昌壽陵) hay **lăng Từ Dụ** là lăng mộ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu Phạm Thị Hằng (1810-1901), hay còn gọi là Từ Dụ thái hậu, vợ của vua Thiệu
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là
**Người Ba Na** (**Bahnar;** các nhóm nhánh: Jơ Lơng, Rơ Ngao, Glar, Tơ Lô, Bơ Nâm, Kriem, KonKơdeh) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Ba Na cư trú
**Lăng Tự Đức** (chữ Hán: 嗣德陵) là một quần thể Di tích công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
**Trường Đại học Văn Lang** (English:**_Van Lang University**,_ Latin: _Universitas Vanlangensis_), thường được gọi tắt là **VLU** là một trường đại học tư thục đa ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành
### 1. Thân thế và chí khí anh hùng Tướng quân **Đào Kỳ**, còn gọi là **Đào Tam Lang**, quê tại làng Hội Phụ, tổng Cối Giang, thuộc phủ Từ Sơn xưa, nay là xã