✨Kinh tế Ý

Kinh tế Ý

Nền kinh tế Ý là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP (PPP). Ý là thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Khu vực đồng tiền chung châu Âu, OECD, G7 và G20; Ý là nhà xuất khẩu lớn thứ 10 thế giới với giá trị xuất khẩu đạt 632 tỷ USD vào năm 2019. Các đối tác thương mại gần gũi nhất của Ý là các nước thuộc Liên minh châu Âu, chiếm khoảng 59% tổng thương mại quốc gia. Trong đó những đối tác thương mại lớn nhất sắp xếp theo thứ tự từ lớn đến bé về thị phần xuất khẩu là Đức (12,5%), Pháp (10,3%), Hoa Kỳ (9%), Tây Ban Nha (5,2%), UK (5,2%) và Thụy Sĩ (4,6%).

Trong giai đoạn sau Thế chiến thứ hai, Ý đã chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc chiến tranh thế giới thành một trong những quốc gia tiên tiến nhất thế giới và là quốc gia hàng đầu về thương mại và xuất khẩu. Theo Chỉ số Phát triển Con người, quốc gia này có mức sống rất cao. Theo đánh giá của The Economist, Ý có chất lượng cuộc sống cao thứ 8 thế giới. Ý là quốc gia có lượng dự trữ vàng lớn thứ ba thế giới là quốc gia có đóng góp ròng lớn thứ ba cho ngân sách của Liên minh châu Âu. Ngoài ra, Ý còn là một trong những quốc gia có tổng giá trị tài sản cá nhân cao nhất thế giới khi xếp ở vị trí thứ hai chỉ sau Hồng Kông về tỷ lệ tài sản tư nhân trên GDP.

Ý là quốc gia có ngành sản xuất lớn (đứng thứ hai ở EU, sau Đức) và là nhà xuất khẩu nhiều loại mặt hàng quan trọng bao gồm máy móc, xe cơ giới, dược phẩm, đồ nội thất, thực phẩm, quần áo và robot. Nhờ đó mà Ý có thặng dư thương mại đáng kể. Đất nước này cũng nổi tiếng với các lĩnh vực kinh tế kinh doanh sáng tạo và có tầm ảnh hưởng lớn trong đó có ngành nông nghiệp tiên tiến và cạnh tranh (Ý là nhà sản xuất rượu vang lớn nhất thế giới) và là nhà sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, được thiết kế sáng tạo gồm có ô tô, tàu thủy, đồ gia dụng và quần áo hàng hiệu. Ý được coi là trung tâm tiêu thụ hàng xa xỉ lớn nhất ở Châu Âu và thứ ba trên toàn cầu.

Bất chấp những thành tựu quan trọng này, nền kinh tế của đất nước ngày nay vẫn đang gặp phải những vấn đề về mang tính hệ thống và phi hệ thống. Tốc độ tăng trưởng hàng năm thường thấp hơn mức trung bình của EU. Ý bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề gây ra bởi cuộc suy thoái cuối những năm 2000. Việc chi tiêu quá mức của chính phủ từ những năm 1980 đã khiến nợ công nước này tăng lên một cách nghiêm trọng. Ngoài ra, mức sống của người Ý có sự chênh lệch đáng kể giữa 2 miền Bắc - Nam: GDP bình quân đầu người ở khu vực Bắc Ý cao hơn mức trung bình của EU một cách đáng kể trong khi một số vùng và các tỉnh ở miền Nam nước Ý lại thấp hơn nhiều. Khu vực Trung Ý được xem là nơi có GDP bình quân bằng trung bình của hai vùng Bắc - Nam. Trong những năm gần đây, tốc đọ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Ý thấp hơn mức trung bình của Khu vực đồng tiền chung châu Âu, trong khi tỷ lệ việc làm của nước này vẫn tụt hậu hơn nhiều. Tuy nhiên, các nhà kinh tế vẫn đang tranh cãi về số liệu việc làm chính thức của quốc gia này vì số lượng lớn các việc làm phi chính thức (ước tính chiếm khoảng 10% đến 20% lực lượng lao động) đang tồn tại ở Ý khiến con số về tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Kinh tế ngầm chủ yếu tồn tại ở miền Nam và ít hiện diện hơn khi di chuyển dần lên phía Bắc của đất nước. Chính vì vậy, các số liệu kinh tế trên thực tế của miền Nam nước Ý gần như là ngang với Trung Ý.

Lịch sử

Lịch sử kinh tế của Ý có thể được chia thành ba giai đoạn chính: giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh sau khi đất nước thống nhất, đặc trưng bởi lượng người nhập cư cao và tốc độ tăng trưởng kinh tế trì trệ; giai đoạn giữa từ những năm 1890 đến những năm 1980 nơi có sự bắt kịp mạnh mẽ về khoa học và công nghệ so với các nước tiên tiến nhưng bị gián đoạn bởi cuộc đại suy thoái những năm 1930 và hai cuộc chiến tranh thế giới; giai đoạn cuối cùng đánh giấu sự tăng trưởng kinh tế chậm chạp đã trở nên trầm trọng hơn bởi cuộc suy thoái kép sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, và từ đó đất nước đang dần phục hồi mới chỉ trong những năm gần đây.

Thời đại công nghiệp hóa

thumb|left|Những nhà máy thép ở [[Terni vào năm 1912.]]

Trước khi thống nhất, nền kinh tế của các tiểu quốc thuộc Ý ngày nay dựa nhiều vào nông nghiệp; tuy nhiên, thặng dư nông nghiệp tạo ra cái mà các nhà sử học gọi là sự chuyển đổi "tiền công nghiệp" ở cùng Tây Bắc nước Ý được bắt đầu từ những năm 1820 dẫn đến sự tập trung rộng rãi của các hoạt động sản xuất (chủ yếu là ngành thủ công), đặc biệt là ở Vương quốc Sardegna dưới sự cai trị tự do của Camillo Benso.

Sau khi Vương quốc Ý thống nhất ra đời vào năm 1861, tầng lớp thống trị đã nhận thức sâu sắc về sự lạc hậu của đất nước còn non trẻ này khi cho rằng GDP bình quân đầu người tính theo PPS chỉ bằng một nửa của Anh và thấp hơn khoảng 25% của Pháp và Đức. cộng thêm tỷ lệ mù chữ cao. Trong những năm 1880, cuộc khủng hoảng nông trại nghiêm trọng dẫn buộc vùng thung lũng Po phải áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại hơn, trong khi từ năm 1878 đến năm 1887, các chính sách bảo hộ mậu dịch đã được đưa ra với mục đích thiết lập cơ sở cho ngành công nghiệp nặng phát triển. Một số nhà máy sản xuất thép và sắt lớn tập trung quanh ở các khu vực có tiềm năng thủy điện cao, đặc biệt là tại chân núi Alpine và vùng Umbria thuộc miền trung nước Ý, trong khi Turin và Milan dẫn đầu quốc gia về số lượng các công ty hoạt động trong các lĩnh vực dệt may, hóa chất, kỹ thuật và ngân hàng còn tại Genoa là ngành đóng tàu dân sự và quân sự.

Tuy nhiên, sự lan tỏa của quá trình công nghiệp hóa đặc trưng cho khu vực Tây Bắc của đất nước lại không đến được vùng Venetia và đặc biệt là khu vực phía Nam. Kết quả là sự di cư của cộng đồng người Ý ra nước ngoài gồm có 26 triệu người chủ yếu trong những năm từ 1880 đến 1914; theo nhiều học giả, đây được coi là cuộc di cư lớn nhất trong thời kỳ đương đại. Trong suốt cuộc chiến tranh Thế giới thứ Nhất, nhà nước Ý vẫn còn non yếu đã chiến đấu và giành được chiến thắng, qua đó có thể trang bị và đào tạo khoảng 5 triệu tân binh. Nhưng chiến thắng này khiến Ý đã phải trả một cái giá khủng khiếp: vào cuối cuộc chiến, Ý đã mất 700.000 binh sĩ và gánh một khoản nợ có chủ quyền lên tới hàng tỷ lira.

Chế độ Phát xít

thumb|left|[[Benito Mussolini phát biểu tại nhà máy Lingotto của Fiat ở Turin năm 1932.]]

Kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Ý rơi vào tình trạng nghèo nàn và suy yếu. Đảng Phát xít quốc gia do Benito Mussolini lãnh đạo lên nắm quyền vào năm 1922, đây là giai đoạn cuối của thời kỳ bất ổn xã hội trên toàn nước Ý. Tuy nhiên, khi Mussolini nắm được quyền lực vững chắc, chủ trương tự do kinh tế và thương mại đã dần dần bị loại bỏ, nền kinh tế chịu sự can thiệp trực tiếp đến từ phía chính phủ và chính sách bảo hộ mậu dịch.

Năm 1929, nền kinh tế quốc gia của Ý chịu sự tàn phá nặng nề gây ra bởi cuộc đại suy thoái. Để đối phó với cuộc khủng hoảng, chính phủ Phát xít đã quốc hữu hóa cổ phần các ngân hàng lớn có lượng tích lũy đáng kể chứng khoán công nghiệp và thành lập lên một công ty đại chúng với cái tên Viện Tái thiết Công nghiệp. Một số tổ chức hỗn hợp gồm các đại diện của chính phủ và các doanh nghiệp lớn được thành lập. Những đại diện này đã thảo luận về các chính sách kinh tế, cách thức thao túng giá cả và tiền lương nhằm đáp ứng mong muốn về mặt lợi ích của cả chính phủ và doanh nghiệp.

Phép màu kinh tế thời hậu chiến

thumbnail|Mẫu xe [[Fiat 500 được ra mắt vào năm 1957 được coi là một biểu tượng cho phép màu kinh tế thời hậu chiến của Ý.]]

Sau khi Thế chiến II kết thúc, nước Ý nằm trong đống đổ nát và bị chiếm đóng bởi quân đội nước ngoài, điều làm gia tăng thêm khoảng cách phát triển kinh tế của quốc gia với các nền kinh tế tiên tiến hơn của châu Âu một cách trầm trọng. Tuy nhiên, logic địa chính trị mới đến từ cuộc Chiến tranh lạnh mà ở đó Ý, tuy là kẻ thù cũ của Mỹ trong Thế chiến II lại là một quốc gia bản lề giữa hai khu vực trọng yếu là Tây Âu và Địa Trung Hải hiện đang có một nền dân chủ mới và mỏng manh trước sự đe dọa bởi các lực lượng chiếm đóng của NATO cùng với vị trí địa lý ngay sát Bức màn sắt và sự hiện diện mạnh mẽ của Đảng Cộng sả ở nơi đây đã được Hoa Kỳ lựa chọn làm đồng minh quan trọng để phục vụ tham vọng về một Thế giới Tự do. Nhờ đó mà Ý đã được chọn nằm trong Kế hoạch Marshall khi nhận tới hơn 1,2 tỷ USD trong giai đoạn từ năm 1947 đến 1951.

Kế hoạch Marshall chấm dứt khiến đà phục hồi kinh tế chậm lại nhưng nó lại trùng với một thời điểm quan trọng đó là Chiến tranh Triều Tiên, đây là thời điểm mà nhu cầu về kim loại và các sản phẩm chế tạo đến từ Hoa Kỳ đã kích thích ngành sản xuất công nghiệp của Ý. Ngoài ra, việc thành lập Thị trường chung châu Âu vào năm 1957 mà ở đó Ý là thành viên sáng lập, đã cung cấp thêm nguồn đầu tư vào đất nước hơn và giảm bớt sự phục thuộc vào xuất khẩu.

Những điều kiện phát triển thuận lợi kể trên, kết hợp với sự hiện diện của một lực lượng lao động lớn, đã đặt nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục kéo dài hầu như không bị gián đoạn bởi hàng loại những cuộc đình công quy mô lớn với tên gọi "Autunno caldo" đã gây ra tình trạng bất ổn xã hội trong giai đoạn 1969–70, sau đó cuộc Khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã chính thức chấm dứt giai đoạn kinh tế bùng nổ trong một khoảng thời gian dài. Trong giai đoạn bùng nổ kinh tế đó, người ta tính toán rằng nền kinh tế của Ý đã có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5,8% mỗi năm trong giai đoạn 1951-1963 và 5% mỗi năm trong giai đoạn 1964-1973.

Những năm 1970 và 1980: từ lạm phát đình trệ đến "il sorpasso"

thumb|Thủ tướng [[Giulio Andreotti (ngoài cùng bên trái) cùng với các nhà lãnh đạo G7 tại Bonn vào năm 1978.]]

Những năm 1970 là thời kỳ hỗn loạn về kinh tế, chính trị và bất ổn xã hội ở Ý, nó được biết đến với cái tên Anni di piombo. Đây là thời kỳ mà tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh, đặc biệt là ở nhóm người trẻ tuổi, và đến năm 1977 đã có một triệu người dưới 24 tuổi rơi vào tình trạng thất nghiệp. Lạm phát tiếp tục trầm trọng hơn do giá dầu tăng trong năm 1973 và 1979. Thâm hụt ngân sách trở nên ngày một tệ và dường như không thể cứu vãn khi chiếm tới khoảng 10 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cao hơn bất kỳ nước công nghiệp nào khác. Đồng lira thì liên tục mất giá, từ 560 lira 1 đô la Mỹ vào năm 1973 xuống còn 1.400 lira vào năm 1982.

Suy thoái kinh tế tiếp diễn vào giữa những năm 1980 cho đến khi một loạt các cải cách được đưa ra dẫn đến sự độc lập của Ngân hàng Ý khỏi nhà nước cùng với việc cắt giảm đáng kể chỉ số tiền lương đã khiến tỷ lệ lạm phát giảm mạnh từ 20,6% năm 1980 xuống 4,7% năm 1987. Sự ổn định mới về mặt kinh tế vĩ mô và chính trị đã dẫn đến "phép màu kinh tế" thứ hai, khi Ý trở thành quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu nhờ dựa vào các Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyên sản xuất quần áo, đồ da, giày dép, đồ nội thất, dệt may, đồ trang sức và công cụ máy. Kết quả của sự tăng trưởng nhanh chóng này giúp Ý vượt qua nền kinh tế của Vương quốc Anh vào năm 1987 (đây là sự kiện được gọi là il sorpasso) để trở thành quốc gia giàu thứ tư trên thế giới sau Mỹ, Nhật Bản và Tây Đức. Sàn giao dịch chứng khoán Milan đã tăng vốn hóa thị trường của mình lên hơn 5 lần chỉ trong vòng vài năm.

Tuy nhiên, đằng sau sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế Ý những năm 1980 lại bộc lộ một vấn đề: sự bùng nổ đến từ việc tăng năng suất và giá trị xuất khẩu, nhưng thâm hụt tài khóa không bền vững mới là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng. Do đó, các chính sách kinh tế hạn chế đã làm trầm trọng thêm những tác động đến từ cuộc đại suy thoái toàn cầu đang diễn ra nên nền kinh tế của Ý. Sau một quãng thời gian ngắn phục hồi vào cuối những năm 1990, thuế suất cao và Bệnh Quan Liêu đã khiến nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng trì trệ từ năm 2000 đến năm 2008.

Đại suy thoái

thumb|right|GDP bình quân đầu người của Ý, Pháp, Đức và Anh từ 1970 đến 2008.

Ý là một trong những quốc gia chịu sự ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc Đại suy thoái diễn ra trong giai đoạn 2008-2009 và Khủng hoảng nợ công châu Âu diễn ra sau đó. Tổng cộng nền kinh tế quốc dân đã giảm đi 6,76% trong suốt giai đoạn này và diễn ra liên tục trong vòng 7 quý liên tiếp. Vào tháng 11 năm 2011, lợi suất trái phiếu của Ý là 6,74% đối với trái phiếu có thời gian đáo hạn là 10 năm, mức lợi suất gần với con số 7% này khiến Ý được cho là đã mất quyền tiếp cận thị trường tài chính. Theo Eurostat, năm 2015 khoản nợ chính phủ Ý bằng 128% tổng GDP của nước này, con số này cao thứ hai trên thế giới và chỉ đứng sau Hy Lạp (175%). Tuy nhiên, phần lớn nợ công Ý thuộc sở hữu của các kiều bào Ý và mức tiết kiệm cá nhân của người dân nước này lại tương đối cao cộng thêm mức nợ tư nhân thấp nên khoản nợ công của Ý lại được coi là an toàn nhất trong số các nền kinh tế đang gặp khó khăn ở Châu Âu. Để có liệu pháp tức thời nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng nợ và khởi động quá trình tăng trưởng kinh tế trở lại, Tổ chức chính phủ do nhà kinh tế học Mario Monti đứng đầu đã đưa ra một chương trình gồm các biện pháp thắt lưng buộc bụng trên quy mô lớn đã làm giảm thâm hụt nhưng lại khiến đất nước rơi vào cuộc suy thoái kép vào năm 2012 và 2013 đã vấp phải nhiều lời chỉ trích từ nhiều nhà kinh tế.

Giai đoạn kinh tế phục hồi

thumbnail|right|Mẫu xe [[Ferrari Portofino đại diện cho sức mạnh thương hiệu "Made in Italy" giúp củng cố thêm sức mạnh cho nền kinh tế Ý.]] Trong giai đoạn 2014-2019, nền kinh tế đã phục hồi một phần sau những tổn thất thảm hại trong cuộc Đại suy thoái, chủ yếu nhờ vào xuất khẩu mạnh, nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn mức trung bình của khu vực đồng Euro, có nghĩa là GDP của Ý năm 2019 vẫn thấp hơn 5% so với năm 2008.

Impact of the COVID-19 pandemic

Đầu tháng 2 năm 2020, Ý là quốc gia châu Âu đầu tiên chịu sự ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 sau đó đã lan rộng ra toàn thế giới. Nền kinh tế đã phải chịu một cú sốc lớn do hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước bị phong tỏa. Sau 3 tháng, đến cuối tháng 5 năm 2020, dịch bệnh đã được kiểm soát, nền kinh tế bắt đầu phục hồi đặc biệt là ở lĩnh vực sản xuất. Nhìn chung, kinh tế quốc gia đã có đà phục hồi trên cả mong đợi mặc dù GDP giảm mạnh như ở hầu hết các nước phương Tây. Chính phủ Ý đã phát hành một loại tín phiếu kho bạc đặc biệt hay được gọi là BTP Futura như một khoản tài trợ khẩn cấp trước sự tàn phá của COVID-19, loại tín phiếu này đang chờ đợi sự chấp thuận đến từ phản ứng của Liên minh Châu Âu đối với đại dịch COVID-19. Cuối cùng, vào tháng 7 năm 2020, Hội đồng châu Âu đã phê duyệt quỹ tái thiết mang tên Next Generation EU trị giá 750 tỷ euro, trong đó 209 tỷ euro sẽ được dành cho Ý.

thumb|[[Mario Draghi, cựu chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu và là Thủ tướng Ý của chính phủ liên minh từ năm 2021]]

Tổng quan

Dữ liệu

Bảng sau đây cho thấy các chỉ tiêu kinh tế chính trong giai đoạn 1980–2020. Lạm phát dưới 2% có màu xanh lục.

Các công ty

Trong số 500 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới theo doanh thu được xếp hạng bởi Fortune Global 500 vào năm 2016, 9 công ty có trụ sở tại Ý.

Số liệu là của năm 2016. Những số liệu in nghiêng là số liệu của quý 3 năm 2017

Mức độ giàu có

thumb|right|[[Leonardo Del Vecchio.]]

Ý có hơn 1,4 triệu người sở hữu giá trị tài sản ròng lớn hơn 1 triệu đô la, tổng tài sản quốc gia là 11,857 nghìn tỷ đô la và là quốc gia có số tài sản ròng tích lũy lớn thứ 5 trên toàn cầu (chiếm 4,92% tổng số tài sản ròng thế giới). Theo Sách dữ liệu về tài sản toàn cầu năm 2013 của Credit Suisse, giá trị tài sản trung bình mà một người trưởng thành sỡ hữu là 138.653 đô la (xếp thứ 5 trên thế giới),

Dưới đây là danh sách 10 tỷ phú giàu nhất của Ý dựa trên đánh giá hàng năm về sự giàu có và số lượng tài sản nắm giữ do Forbes tổng hợp và công bố vào năm 2017.

Số liệu theo vùng

thumb|Bản đồ về số liệu GDP bình quân đầu người từng vùng của Ý.

Sự chênh lệch giàu nghèo giữa Bắc-Nam

Ngay từ khi nước Ý thống nhất vào năm 1861, sự phân hóa về mặt kinh tế đã sớm tồn tại và ngày một gia tăng giữa các tỉnh phía bắc và nửa khu vực ở phía nam. Khoảng cách này chủ yếu gây ra bởi các chính sách dành riêng cho từng khu vực được lựa chọn bởi người Piedmont, sở dĩ có điều này là do họ là những người thống trị các chính phủ hậu thống nhất đầu tiên. Bằng chứng chính là cuộc cải cách theo chủ nghĩa bảo hộ năm 1887, cuộc cải cách này thay vì bảo vệ các ngành trồng trọt hiện diện chủ yếu ở miền Nam đất nước đang bị đè bẹp bởi sự sụt giá nông sản những năm 1880, đã bảo hộ ngành chăn nuôi, trồng lúa mì ở Thung lũng Po; đồng thời những ngành sản xuất và dệt may ở miền Bắc đã sống sót trong giai đoạn khó khăn này nhờ sự can thiệp của nhà nước. Trên thực tế, vùng Po Valley thống trị việc phân bổ các hợp đồng quần áo quân sự, trong khi các tỉnh thuộc miền Bắc được độc quyền giấy phép khai thác than và các hợp đồng công cộng. Một logic tương tự đó là hướng đến việc phân bổ sự độc quyền trong các lĩnh vực chế tạo tàu hơi nước và hàng hải, và hơn hết là chi tiêu công trong lĩnh vực đường sắt, chiếm 53% trong tổng số các ngành năm 1861-1911 đến hai khu vực kể trên. Tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa Bắc-Nam tiếp tục trở lên tồi tệ hơn khi mà các nguồn lực cần thiết để tài trợ cho nỗ lực chi tiêu công này có được thông qua việc áp thuế tài sản đất đai rất mất cân đối giữa hai vùng, điều này đã ảnh hưởng đến nguồn tiết kiệm chủ yếu dành cho đầu tư vào các lĩnh vực tăng trưởng mà không có hệ thống ngân hàng phát triển. Nói một cách rõ ràng hơn thì cuộc cải cách năm 1864 đã ấn định doanh thu mục tiêu là 125 triệu sẽ được lấy từ 9 quận trên cả nước tồn tại như các tiểu bang đơn nhất thời bấy giờ. Do chính phủ không có khả năng ước tính khả năng sinh lợi đến từ đất đai mà chủ yếu là do sự khác biệt lớn giữa các cơ quan quản lý khu vực cho nên chính sách này đã gây ra sự khác biệt lớn về nguồn thu giữa 2 vùng Bắc-Nam. Hơn nữa, việc khai thác nguồn tài nguyên của khu vực phía Nam quá mức đã phá hủy mối quan hệ giữa nhà nước trung ương và người dân ở miền Nam đã mở đầu cho cuộc nội chiến đầu tiên có tên là Brigandage, cuộc nội chiến này đã khiến khoảng 20.000 người thiệt mạng vào năm 1864, buộc vương quốc phía Nam phải thực hiện quân sự hóa và sau đó là sự di cư ồ ạt từ năm 1892 đến năm 1921.

Sau sự trỗi dậy của Benito Mussolini, Cesare Mori - người được mệnh danh là "Prefetto di Ferro" đã phần nào đánh bại các tổ chức tội phạm vốn đã hùng mạnh và đang phát triển mạnh mẽ ở miền Nam. Tư tưởng phát xít nhằm thành lập Đế quốc Ý đã biến các cảng biển ở miền Nam nước Ý trở thành vị trí chiến lược đối với mọi hoạt động thương mại đến các nước thuộc địa. Sau chiến dịch xâm lược miền Nam nước Ý, quân Đồng minh đã khôi phục quyền lực của các gia đình mafia từng bị tiêu diệt trong thời kỳ Phát xít nhằm sử dụng tầm ảnh hưởng của chúng để duy trì trật tự công cộng.

Vào những năm 1950, một chính sách mang tên Cassa per il Mezzogiorno đã được thiết lập bởi chính phủ nhằm giúp đẩy mạnh công nghiệp hóa miền Nam theo hai cách: thứ nhất là thông qua cải cách ruộng đất để tạo ra 120.000 tiểu điền mới và thứ hai là thông qua "Chiến lược Cực tăng trưởng" mà theo đó 60% tất cả các khoản đầu tư của chính phủ sẽ được dành cho miền Nam, nhờ vậy có thể thúc đẩy nền kinh tế khu vực bằng cách thu hút vốn đầu tư mới và các doanh nghiệp địa phương để cung cấp thêm việc làm. Tuy nhiên, phần lớn các mục tiêu kể trên đều bất thành, và kết quả là miền Nam ngày càng trở nên bao cấp và phụ thuộc vào nhà nước, không có khả năng tự tạo ra tăng trưởng cho khu vực tư nhân.

Cho đến ngày nay, sự chênh lệch giữa các khu vực hai miền vẫn tồn tại. Các vấn đề kinh niên chưa thể giải quyết ở miền Nam nước Ý là tham nhũng chính trị đang lan rộng, các băng nhóm tội phạm có tổ chức vẫn còn hiện diện ở nhiều nơi tỷ lệ thất nghiệp rất cao. Năm 2007, người ta ước tính rằng khoảng 80% doanh nghiệp ở hai thành phố Catania và Palermo thuộc đảo Sicilia phải trả tiền bảo kê mới có thể hoạt động; nhờ có phong trào chống nộp thuế cho mafia Addiopizzo, mũi súng của các mafia trên vùng đảo này đang dần dần mất đi sức mạnh. Bộ Nội vụ Ý báo cáo rằng số lợi nhuận mà các băng nhóm tội phạm có tổ chức ở Ý thu được hàng năm được ước tính lên đến 13 tỷ Euro.

Các khu vực kinh tế

Khu vực kinh tế thứ nhất

thumb|right|upright=1.4|Vườn nho gần [[Certaldo, Toscana. Ý là nhà sản xuất rượu vang hàng đầu thế giới (chiếm 22% thị trường toàn cầu). Phần lớn trong số đó (99%) là sản xuất theo hình thức gia đình với quy mô nhỏ và trung bình với tổng diện tích chỉ 8 ha. Điều này dẫn đến việc một khu vực sản xuất thường tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm hướng tới thị trường ngách xa xỉ, vốn ít có khả năng cạnh tranh về số lượng nhưng lại đứng trước nguy cơ phải đối mặt với sự cạnh tranh đến từ các nền kinh tế mới nổi nhờ có chi phí lao động thấp nên chất lượng sản phẩm cao hơn. Các khu công nghiệp đều được khu vực hóa: ở Tây Bắc có một nhóm lớn các ngành công nghiệp hiện đại hay còn được gọi là "tam giác công nghiệp" (Milan-Turin-Genoa), nơi có một cụm công nghiệp chuyên sản xuất máy móc, ô tô, tàu bay vũ trụ và đóng tàu; còn ở Đông Bắc là khu vực phát triển kinh tế và xã hội chủ yếu xoay quanh các doanh nghiệp gia đình, vừa và nhỏ tuy trình độ công nghệ thấp hơn nhưng lại có trình độ thủ công cao, chuyên về máy móc, quần áo, sản phẩm da, giày dép, đồ gỗ, dệt may, máy công cụ, phụ tùng, thiết bị gia dụng và đồ trang sức. Những thương hiệu xe sang như Ferrari, Lamborghini, Maserati và Ducati đều được sản xuất ở vùng Emilia-Romagna thuộc vùng Đông Bắc. Ở miền trung nước Ý hầu hết có các công ty vừa và nhỏ chuyên về các sản phẩm như dệt may, da thuộc, đồ trang sức và cả máy móc.

Khu vực kinh tế thứ ba

Nguồn gốc của ngân hàng hiện đại có thể đã bắt nguồn từ thời kỳ Trung cổ và đầu thời kỳ Phục hưng ở Ý tại các thành phố giàu có như Firenze, Lucca, Siena, Venice và Genova. Các gia đình Bardi và Peruzzi đã thâu tóm hầu hết các ngân hàng ở Firenze vào thế kỷ 14 và thành lập lên các chi nhánh ở nhiều khu vực khác của châu Âu. Một trong những ngân hàng nổi tiếng nhất của Ý là Ngân hàng Medici do Giovanni di Bicci de' Medici thành lập vào năm 1397. Ngân hàng tiền gửi nhà nước sớm nhất từng được biết đến là Ngân hàng Saint George được thành lập vào năm 1407 tại Genova, trong khi đó Ngân hàng Monte dei Paschi di Siena được thành lập vào năm 1472 là ngân hàng lâu đời nhất thế giới còn hoạt động. Ngày nay, trong số các công ty dịch vụ tài chính, UniCredit là một trong những ngân hàng lớn nhất ở Châu Âu tính theo vốn hóa và Assicurazioni Generali là tập đoàn bảo hiểm lớn thứ hai trên thế giới theo doanh thu chỉ sau AXA.

Sau đây là danh sách các ngân hàng và tập đoàn bảo hiểm lớn của Ý được xếp hạng theo tổng tài sản và tổng doanh thu phí bảo hiểm.

|

|}

Cơ sở hạ tầng

Năng lượng và tài nguyên thiên nhiên

thumb|upright=1.4|Bản đồ về sự phân bố tài nguyên thiên nhiên của Ý. Kim loại là những ký hiệu có màu xanh dương (Al – quặng nhôm, Mg— [[Magnesi|Ma-giê, Fe – quặng sắt, Hg — thủy ngân, PM – các quặng đa kim (Cu, Zn, Ag, Pb), PY — pyrit). Nhiên liệu hóa thạch là những ký hiệu màu đỏ (C – than, G – khí thiên nhiên, L — than nâu, P – dầu mỏ). Các khoáng chất phi kim có màu xanh lục (ASB — amiăng, F — fluorit, K — kali, MAR — đá hoa, S — lưu huỳnh).]] thumb|[[Turbine gió ở Varese Ligure.]]

Vào đầu những năm 1970, Ý chủ yếu các nguồn tài nguyên thiên nhiên như pyrit (ở Maremma thuộc vùng Toscana), amiăng (tại các mỏ Balangero), fluorit (được tìm thấy nhiều ở đảo Sicilia) và muối. Đồng thời cũng tự cung cấp nhôm (từ Gargano), lưu huỳnh (từ đảo Sicilia), chì và kẽm (từ đảo Sardegna). Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990, Ý đã bị tụt lại trên các bảng xếp hạng thế giới về sản lượng khai thác và không còn tự cung tự cấp được các nguồn tài nguyên như đã kể trên. Các quặng sắt, than và dầu hầu như đã bị khai thác toàn bộ. Ngoài ra, trữ lượng khí đốt tự nhiên của nước này không còn nhiều, chủ yếu số còn sót lại nằm tại Thung lũng Po và ngoài khơi biển Adriatic, đây đều là những loại tài nguyên mới được phát hiện trong những năm gần đây khiến nó trở thành nguồn tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất của đất nước. Ý là một trong những nhà sản xuất đá bọt, pozzolan và felspat lớn nhất thế giới. Do phụ thuộc vào nhập khẩu, một người Ý trung bình sẽ phải trả nhiều hơn khoảng 45% so với mức trung bình của các quốc gia khác thuộc EU cho tiền điện.

Ý từng có bốn lò phản ứng hạt nhân vào những năm 1980, tuy nhiên đến năm 1987, sau sự kiện thảm họa Chernobyl, phần lớn người Ý đã thông qua một cuộc trưng cầu dân ý về việc loại bỏ dần các nhà máy điện hạt nhân ở Ý. Chính phủ đã phản hồi ngay lập tức bằng cách đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân hiện hiện đang hoạt động và ngừng tất cả các dự án có liên quan đang được triển khai, mặc dù vậy các chương trình năng lượng hạt nhân ở nước ngoài vẫn được phép hoạt động. Công ty điện lực quốc gia Enel có vận hành bảy lò phản ứng hạt nhân ở Tây Ban Nha (thông qua công ty Endesa) và bốn ở Slovakia (thông qua công ty Slovenské elektrárne), vào năm 2005 công ty đã thực hiện một thỏa thuận với Tập đoàn Điện lực Pháp để xây dựng một lò phản ứng hạt nhân ở Pháp. Phần còn lại là từ nhiên liệu hóa thạch (38,2% khí đốt tự nhiên, 13% than đá, 8,4% dầu) đều được nhập khẩu. Mạng lưới đường thủy nội địa quốc gia bao gồm 1.477 km sông và hàng hải. Năm 2007, Ý duy trì một đội bay dân sự có khoảng 389.000 chiếc và một đội tàu buôn 581 chiếc.

Nghèo đói

Năm 2015, tình trạng nghèo đói ở Ý đạt mức cao nhất trong 10 năm qua. Thu nhập được xem là xếp vào diện nghèo đói tuyệt đối của một gia đình hai người là 1050,95 EUR/tháng. Chuẩn nghèo bình quân đầu người thay đổi theo khu vực từ 552,39 EUR/tháng đến 819,13 EUR/tháng. Số người được xếp vào dạng nghèo tuyệt đối đã tăng lên gần một phần trăm vào năm 2015, từ 6,8% năm 2014 lên 7,6% vào năm 2015. Tại miền Nam, con số thậm chí còn cao hơn với 10% người dân sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt đối, tăng từ 9% vào năm 2014. Miền Bắc khá giả hơn ở mức 6,7%, nhưng đây vẫn là mức tăng từ 5,7% vào năm 2014. Tỷ lệ các hộ gia đình có ít nhất một thành viên trong gia đình có việc làm mà vẫn rơi vào tình trạng nghèo đói đã tăng từ 6,1% lên thành 11,7%, con số này thậm chí còn cao hơn ở những người có công việc là công nhân trong các nhà máy. Con số này thậm chí còn cao hơn đối với các thế hệ trẻ vì tỷ lệ thất nghiệp của họ là hơn 40%. Ngoài ra, trẻ em cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Vào năm 2014, 32% những người trong độ tuổi 0–17 có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo đói hoặc bị xã hội loại trừ, tức là cứ ba người trẻ trong độ tuổi này thì có một người thuộc diện nghèo đói. Trong khi ở miền Bắc, tỷ lệ nghèo tương đương với Pháp và Đức, thì ở miền Nam, con số này gần như gấp đôi. Trong báo cáo ISTAT gần đây nhất, tình trạng nghèo đói đang được giảm dần.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nền kinh tế Ý** là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Hệ tư tưởng kinh tế** phân biệt chính nó với lý thuyết kinh tế trong việc mang tính quy phạm hơn là chỉ giải thích theo cách tiếp cận của nó. Các hệ tư tưởng
**Xã hội học kinh tế** là nghiên cứu về nguyên nhân và kết quả xã hội của các hiện tượng kinh tế khác nhau. Lĩnh vực này có thể được chia thành thời kỳ cổ
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Kinh tế chia sẻ** là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y** là một khu kinh tế cửa khẩu (Việt Nam), gắn với _cửa khẩu quốc tế Bờ Y_ ở xã Pờ Y huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
**Kinh tế** (Tiếng Anh: _economy_) là một lĩnh vực sản xuất, phân phối và thương mại, cũng như tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Cộng đồng Kinh tế châu Âu** (, viết tắt là **EEC**) cũng gọi đơn giản là **Cộng đồng châu Âu**, ngay cả trước khi nó được đổi tên chính thức thành _Cộng đồng châu Âu_
**Kinh tế ngầm** là một khu vực kinh tế nơi mà tất cả các hoạt động thương mại được tiến hành mà không có sự kiểm soát, thống kê của cơ quan nhà nước (thuế,
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế thị trường** là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Nền kinh tế của Singapore** là một nền kinh tế thị trường tự do với mức độ phát triển cao và được xếp hạng là nền kinh tế mở nhất trên thế giới với mức
**Nền kinh tế Bồ Đào Nha** là nền kinh tế lớn thứ 34 theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới trong năm 2019. Phần lớn hoạt động thương
**Paraguay** là một nền kinh tế thị trường có khu vực kinh tế phi chính thức lớn. Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, song phân phối đất đai không bình
Hiện tượng **bong bóng kinh tế** (tiếng Anh: Economic bubble) là hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá hàng hóa hoặc tài sản giao dịch tăng đột biến đến một mức giá
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
**Kinh tế Mexico** là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ 15 trên thế giới. Kể từ cuộc khủng hoảng 1994, chính phủ México đã có những cải cách đáng
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
Theo nhận định của một số chuyên gia kinh tế học, **hiệu ứng lấn át** trong kinh tế là hiện tượng xảy ra khi sự tham gia của chính phủ trong một lĩnh vực nào
**Nền kinh tế nền tảng** (trong tiếng Anh gọi là **Platform Economy**) được hiểu là một phần của nền kinh tế mà tại đó các hoạt động kinh tế và xã hội được diễn ra
nhỏ|Cổng trường Đại học kinh tế quốc dân (phố Vọng) **Đại học Kinh tế Quốc dân** (tiếng Anh: _National Economics University_, **NEU**) là một đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các
**Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa** là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của Việt Nam. Nó được mô tả
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
**Hội đồng Tương trợ Kinh tế** (tiếng Nga: Совет экономической взаимопомощи _Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči_, **SEV** (СЭВ, SEW); tiếng Anh: Council of Mutual Economic Assistance, **COMECON** hoặc CMEA), còn gọi là tổ chức hợp tác kinh
**Chính sách kinh tế mới (NEP)** () là một chính sách kinh tế của Liên Xô được đề xuất bởi Vladimir Lenin năm 1921 như một biện pháp tạm thời. Lenin đã miêu tả NEP
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
Kể từ khi được trao trả lại cho Trung Quốc vào năm 1999, Ma Cao vẫn duy trì được vị thế là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới có được
Thế kỷ 19 đã bắt đầu xuất hiện những manh nha của **Kinh tế học vĩ mô** (KTHVM). Sự phát triển, thăng trầm của đời sống thương mại đã được một số tác giả ghi
**Hội đồng Kinh tế Xã hội** là cơ quan cố vấn cho cho Chính phủ và Quốc hội về những vấn đề kinh tế và xã hội, đồng thời tham gia ý kiến về các
nhỏ|phải|Kinh tế tại Bờ Tây nhỏ|phải|Kinh tế hoàn cảnh tại Bờ Tây **Kinh tế Palestine** (_Economy of the State of Palestine_) đề cập đến hoạt động kinh tế của Nhà nước Palestine. Kinh tế Palestine
Lý thuyết **nền kinh tế Robinson Crusoe** là một lý thuyết nền tảng được dùng để nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong kinh tế. Lý thuyết trên đưa ra giả thuyết về một