✨Khoáng vật học

Khoáng vật học

thumb|upright=1.5| Khoáng vật học là tập hợp của các ngành học liên quan đến [[hóa học, khoa học vật liệu, vật lý và địa chất.]] Khoáng vật học là môn học thuộc về địa chất được cụ thể hóa trong ngành khoa học nghiên cứu về tính chất hóa học, cấu trúc tinh thể và tính chất vật lý (bao gồm cả tính chất quang học) của khoáng vật và những khoáng vật bị khoáng hóa (artifact). Những chuyên ngành nghiên cứu về khoáng vật học có bao gồm quá trình hình thành và nguồn gốc của khoáng vật, sự phân bố của khoáng vật theo địa lý cũng như là ứng dụng của khoáng vật trong đời sống con người.

Lịch sử về khoáng vật học

thumb|right| Trang từ Treatise on mineralogy bởi [[Friedrich Mohs (1825) ]] thumb|right| Bản đồ phân bố khoáng vật ở Mặt Trăng ([[The Moon minerlogy Mapper), một máy quang phổ (Spectrometer) được đặt trên bề mặt của Mặt Trăng ]] Theo những ghi chép đầu tiên về khoáng vật học, đặc biệt là về ngọc hoặc đá quý và một số loại đá bán quý, đến từ vùng văn hóa Babylonia ở những thời kỳ đầu tiên, nền văn hóa Hy Lạp–La Mã (Greco-Roman) cổ, thời cổ và trung cổ của Trung Quốc, và những ghi chép dưới tiếng Phạn từ Ấn Độ cổ và văn hóa hồi giáo. Sách về môn nghiên cứu bao gồm Lịch sử tự nhiên (Naturalis Historia) của tác giả Pliny the Elder, cuốn sách không những miêu tả về nhiều loại khoáng vật khác nhau mà còn giải thích thêm về một số tính chất đặc trưng của chúng, ngoài ra còn có Kitab al Jawahir (Qyuển sách về những loại đá quý) bởi nhà nghiên cứu khoa học người Ba Tư tên Al-Biruni. Nhà chuyên môn Georgius Agricola ở Đức thời Phục Hưng đã để lại những nghiên cứu chẳng hạn như De re metallica (On Metals , 1556) và De Natura Fossilium (On the Nature of Rocks , 1546), chúng đã đưa khoa học tiếp cận đến bộ môn Khoáng vật học. Môn học khoa học về hệ thống khoáng sản và đá được phát triển ở thời Phục Hưng Châu Âu. René Just Haüy, được biết đến như "cha đẻ của tinh thể học hiện đại", cho thấy rằng tinh thể có chu kỳ và được thiết lập để sự định hướng về bề mặt tinh thể có thể được diễn đạt dưới các hạng mục của số hữu tỷ,sau này thì nó đã được mã hóa theo chỉ số Miller. William Nicol đã phát triển lăng kính Nicol (Nicol prism) – đèn phân cực, năm 1827–1828 trong khoảng thời gian ông đang nghiên cứu về gỗ hóa đá; Henry Clifton Sorby cho thấy rằng có thể xác định được khoáng vật qua một vết cắt mỏng của chúng bởi tính chất quang học khi ta sử dụng kính hiển vi phân cực (Polarizing microsope). Độ cứng được xác định bằng cách so sánh với những khoáng vật khác. Trong thang đo độ cứng Mohs, có bảng đánh giá về độ cứng của khoáng vật được xếp từ độ cứng thấp nhất là 1 (khoáng vật talc) đến độ cứng cao nhất là 10 (kim cương). Khoáng vật có độ cứng cao hơn sẽ làm trầy khoáng vật mềm hơn,vì vậy nên một mẫu vật chưa được xác định sẽ được đặt trong thang đo này dựa trên vết trầy của mẫu vật khác để lại hoặc ngược lại.Một số khoáng vật như Calcit và Kyanit có độ cứng phụ thuộc hầu hết vào hướng của vết trầy. Công thức hóa học của chúng là (Mg,Fe)SiO3; Hạt có màu đỏ chính là oxi, hạt màu xanh lam là silicon và hạt màu xanh lục là Magie hoặc sắt.]]

Cấu tạo tinh thể là sự sắp xếp của các nguyên tử trong tinh thể. Nó được tượng trưng bởi những nhóm điểm dạng lưới (Crystal lattice) được đặt lặp đi lặp lại theo một khuôn cơ bản trong không gian ba chiều, còn được gọi là ô đơn vị (Unit cell). Mạng tinh thể được đặc trưng hóa bởi tính đối xứng và chiều không gian trong ô đơn vị của nó. Chiều không gian này được tượng trưng 3 chỉ số Milller. Mạng tinh thể sẽ giữ duy trì không đổi bởi tổ chức đối xứng đối với bất cứ điểm nào trong mạng lưới: phản chiếu (Reflection symmetry), quay (Rotational symmetry), nghịch đảo (Point reflection), và quay nghịch đảo (Improper rotation) là một sự kết hợp của việc quay và phản chiếu. Tập hợp lại, chúng tạo ra một vật mang tính toán học được gọi là nhóm điểm tinh thể (Crystallographic point group) hoặc lớp tinh thể. Có tất cả là 32 lớp tinh thể. Ngoài ra, nhóm không gian của một cấu trúc tinh thể được tạo thành từ các phép đối xứng tịnh tiến (Translational symmetry) bổ sung vào các phép đối xứng của các nhóm điểm. Khi kết hợp với những điểm đối xứng, chúng tạo ra tổng cộng 230 nhóm không gian (Space group). Bột nhiễu xạ có thể phân biệt giữa khoáng vật có thể xuất hiện ở mẫu thử cầm tay, ví dụ như biến thể tridymit và cristobalit

Các nguyên tố hóa học

thumb|upright|Máy huỳnh quang Micro-X di động Một vài khoáng sản là các nguyên tố hóa học, bao gồm lưu huỳnh, đồng, bạc và vàng, nhưng chiếm phần lớn là các hợp chất. Phương pháp cơ bản để xác định thành phần của khoáng vật là dùng các hóa chất lỏng (wet chemical analysis) để tiến hành phân tích, axit clohydric (HCl) là một ví dụ do hóa chất này có thể bào mòn khoáng sản. Các nguyên tố sử dụng trong phương trình được xác định bằng phương pháp đo màu (colorimetry), phân tích thể tích (volumetric analysis) hoặc phân tích trọng lực (gravimetric analysis). Có hơn 6,000 khoáng sản được đặt tên và chưa có tên, và khoảng 100 loại được phát hiện mỗi năm. ‘’Cẩm nang’’ về khoáng vật học phân các khoáng sản theo các loại: nguyên tố tự nhiên, sulfide (sulfides), muối sulfide (sulfosalts), oxit và hydroxide (oxides and hydroxides), halide (halides), cacbonat, nitrat và borat (carbonates, nitrates and borates), sulfat, cromat, molydbat và tungstat (sulfates, chromates, molybdates and tungstates), phosphat, arsenat và vanadate (phosphates, arsenates and vanadates), and silicat (silicates). Quá trình này sử dụng các kỹ thuật từ hóa khoáng học, đặc biệt là những nghiên cứu về đồng vị, để xác định chính xác những thứ như quá trình tăng trưởng của động-thực vật sống= B cũng như những thành phần khoáng sản ban đầu có chứa trong những hóa thạch. Để tiếp cận các khoáng vật nhằm mục đích nghiên cứu, một phương thức mới được gọi là dùng sự tiến hóa của khoáng sản (mineral evolution) để dò tìm sự đồng tiến hóa của hệ sinh quyển và địa quyển ở một khu vực nhất định, bao gồm vai trò của khoáng vật trong nguồn gốc của sự sống, là yếu tố quan trọng quá trình tổng hợp khoáng chất xúc tác và sự hấp thu có chọn lọc các phân tử hữu cơ có trên bề mặt khoáng sản. Sinh khoáng học[chỉnh sửa] Sinh khoáng học là một lĩnh vực được giao thoa giữa khoáng vật học, cổ sinh vật học và sinh học. Đây là ngành học chuyên nghiên cứu về cách thức duy trì, ổn định hàm lượng khoáng sản trong tự nhiên dưới sự kiểm soát sinh học của thực vật và động vật, đáp án của sự cân bằng này là trình tự thay thế khoáng chất của chúng sau quá trình lắng đọng.[16] Quá trình này sử dụng các kỹ thuật từ hóa khoáng học, đặc biệt là những nghiên cứu về đồng vị, để xác định chính xác những thứ như quá trình tăng trưởng của động-thực vật sống[17][18] cũng như những thành phần khoáng sản ban đầu có chứa trong những hóa thạch.[19] Để tiếp cận các khoáng vật nhằm mục đích nghiên cứu, một phương thức mới được gọi là dùng sự tiến hóa của khoáng sản để dò tìm sự đồng tiến hóa của hệ sinh quyển và địa quyển ở một khu vực nhất định, bao gồm vai trò của khoáng vật trong nguồn gốc của sự sống, là yếu tố quan trọng quá trình tổng hợp khoáng chất xúc tác và sự hấp thu có chọn lọc các phân tử hữu cơ có trên bề mặt khoáng sản.[20][21]

Hệ sinh thái của khoáng sản

Vào năm 2011, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu việc phát triển một viện nghiên cứu cơ sở dữ liệu tiến hóa của các loại khoáng sản. Cơ sở dữ liệu này tích hợp một diễn đàn có rất đông thành viên đóng góp – Mindat.org, nơi có hơn 690,000 cặp khoáng sản đặc trưng cho vị trí địa lí của chúng, với danh sách IMA chính thức về khoáng sản và dữ liệu tuổi tác của chúng dựa trên các ấn phẩm địa chất. Cơ sở dự liệu này làm khả thi hóa việc áp dụng số liệu thống kê để trả lời những câu hỏi cũng như những thắc mắc chưa có lời giải mà ngày nay người ta thường đặt ra, hệ sinh thái của khoáng sản là chìa khóa để giải đáp những khúc mắc này. Câu hỏi được đặt ra nhiều nhất là sự tiến hóa của khoáng sản có bao nhiêu phần trăm khả thi (deterministic) và cơ hội thành công chính xác là bao nhiêu. Một số yếu tố có tính chất quyết định, điển hình như là các tính chất hóa học của khoáng sản và điều kiện để chúng ổn định hình thái (stability) của mình; nhưng khoáng vật học cũng có thể bị tác động bởi các quá trình kiến tạo của các thành phần tồn tại trong hành tinh. Trong một bài báo được viết vào năm 2015, Robert Hazen và những nhà khoa học khác đã phân tích được số lượng khoáng sản liên quan đến các nguyên tố cũng như những chức năng phóng phú, đa dạng và đa dụng của chúng. Những nhà khoa học này đã phát hiện được trên Trái Đất có hơn 4800 khoáng sản đã được đặt tên và biết đến, ngoài ra còn 72 nguyên tố, giữa chúng tồn tại một mối quan hệ liên quan đến định luật năng lượng (power law). Mặt Trăng là ví dụ, với chỉ 63 loại khoáng sản và 24 nguyên tố được phát hiện (dựa trên một mẫu vật nhỏ hơn nhiều) và về cơ bản thì chúng có cùng mối quan hệ. Điều này có hàm ý rằng những thành phần hóa học phân bố trên khắp hành tinh, nhờ sự phân bố rộng đó nên những nhà khoa học có thể dự đoán được thêm nhiều khoáng chất phổ biến đang tồn tại ở đâu, dạng nào. Tuy nhiên, sự phân bối khoáng vật có một sự kéo dài (long tail) theo hướng tiêu cực trong quá khứ, với chỉ 34% lượng khoáng sản tìm được ở một hoặc hai khu vực. Theo mô hình dự đoán được còn hàng ngàn những loại khoáng sản khác đang chờ để được khám phá, hoặc đã hoàn thành quá trình kết tinh và sau đó bị xói mòn, vùi sâu hơn vào lòng đất hoặc các quá trình khác làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của chúng. Điều này có ngụ ý rằng tỉ lệ hình thành khoáng sản quí xảy ra cần phải tinh chỉnh, đảm bảo được từng cơ hội một. Trong những tập dữ liệu lớn có một ứng dụng khác rất cần thiết, lý thuyết mạng (network theory) đã được áp dụng vào tập dữ liệu của những khoáng sản thuộc họ cacbon, nhờ vậy đã một phần khám phá được những mẫu vật mới dựa vào sự đa dạng và vị trí phân bố của chúng. Những bản phân tích có thể cho thấy được những khoáng vật nào có xu hướng tồn tại cùng nhau và những điều kiện tồn tại (địa chất, vật lí, hóa học và sinh học) có một sự liên quan nhất định đến chúng. Những tài liệu, thông tin về hệ sinh thái này có thể dùng để dự đoán được vị trí lắng cặng và thậm chí là những loại khoáng sản mới mà chưa ai biết.

Công dụng của khoáng sản

thumb|upright| Biểu đồ hiển thị màu của một số kim loại dạng thô có giá trị thương mại. Khoáng sản là rất cần thiết cho những nhu cầu khác nhau của mỗi người trong xã hồi ngày nay, một vài ví dụ điển hình như chúng được dùng làm quặng cho các thành phần chính của những sản phẩn kim loại dùng trong các mục đích khác nhau như thương phẩm và các thiết bị máy móc, là thành phần thiết yếu cho những vật liệu xây dựng chẳng hạn đá vôi, đá cẩm thạch, đá granit, sỏi, thủy tinh, thạch cao, xi măng, vâng vâng,.... Những khoáng sản còn được dùng như phân bón để làm phong phú lượng dưỡng chất có trong đất để thúc đẩy quá trình phát triển của cây trồng nông nghiệp.

Việc thu thập khoáng sản

Công việc thu thập khoáng sản cũng có thể là một sở thích nghiên cứu và là sở thích của những tín đồ sưu tầm, với những câu lạc bộ và những tổ chức xã hội đại diện cho lĩnh vực này. Những viện bảo tàng, một vài nơi điển hình như bảo tàng lịch sử quốc gia tự nhiên về địa chất, đá quý và khoáng sản Smithsonian (National Museum of Natural History Hall of Geology, Gems, and Minerals), bảo tàng lịch sử tự nhiên của địa hạt Angeles (Natural History Museum of Los Angeles County), [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn| bảo tàng lịch sử tự nhiên, London]], và bảo tàng khoáng sản tư nhân Mim ở Beirut, Liban, có rất nhiêu bộ sưu tập mẫu vật khoáng sản phổ biến được trưng bày dài hạn tại những bảo tàng đó.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright=1.5| Khoáng vật học là tập hợp của các ngành học liên quan đến [[hóa học, khoa học vật liệu, vật lý và địa chất.]] **Khoáng vật học** là môn học thuộc về địa chất
**Ánh**, một khái niệm trong khoáng vật học, là cách ánh sáng tương tác và phản xạ với bề mặt của một tinh thể, đá, hoặc khoáng vật. Trong tiếng Anh và tiếng Tây Ban
Trong khoáng vật học, **vết vỡ** là hình dạng và cách sắp xếp của một bề mặt được hình thành khi một khoáng vật bị đập vỡ. Các khoáng vật thường có một vết vỡ
phải|nhỏ|Kính hiển vi thạch học, là một loại [[kính hiển vi quang học được trang bị ống kính phân cực chéo, một ống kính nội soi, và bộ điều tiết (phổ biến là tấm vật
phải|nhỏ|Một loạt các khoáng vật. Hình ảnh lấy từ [http://volcanoes.usgs.gov/Products/Pglossary/mineral.html Cục Địa chất Hoa Kỳ] . **Khoáng vật** hoặc **khoáng chất, chất khoáng** là các hợp chất tự nhiên được hình thành trong quá trình
thumb|Nhóm đá quý và bán quý—cả đá chưa cắt và đá mài giác—bao gồm kim cương (theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái), [[Saphir|sapphire tổng hợp chưa cắt, hồng ngọc, ngọc lục
Trong khoáng vật học, hình dạng và kích thước được sử dụng để mô tả cho các kiểu (còn gọi là dạng thường hay tập tính) phát triển của các tinh thể thường gặp nhất,
**Bảo tàng Khoáng vật học Kazimierz Maślankiewicz ở Wrocław** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Mineralogiczne im. Kazimierza Maślankiewicza we Wrocławiu_) là một bảo tàng tọa lạc tại số 30 Phố Cybulskiego, 50-205 Wrocław, Ba Lan. Bảo
Đây là danh sách các khoáng vật. Một số khoáng vật có nhiều tên gọi khác nhau được chú thích (nhóm khoáng vật). ## A :Các dạng không được xếp * Agat (một dạng của
**Celestin** hoặc **Celestit** là một khoáng vật chứa stronti sulfat. Tên khoáng vật được đặt theo màu sắc xanh thanh khiết của nó. Celestin là khoáng vật chứa stronti phổ biến nhất. Nó có cấu
**Tan**, còn gọi là **hoạt thạch**, xuất phát từ tiếng tiếng Ba T­ư là _talc_, Tiếng Ả Rập là _talq_, là một khoáng vật magie hydrat silicat có công thức hóa học là H2Mg3(SiO3)4 hay
**Khoáng vật sét** là các loại khoáng vật được hình thành trong tự nhiên từ các quá trình phong hóa tại chỗ các khoáng vật silicat và nhôm silicat của đá mácma và đá biến
phải|nhỏ|Một vài dụng cụ truyền thống của thực vật học **Lịch sử của thực vật học** cho thấy nỗ lực của con người để hiểu sự sống trên Trái Đất bằng cách truy tìm sự
**Ngọc học** là một ngành học về các loại đá quý tự nhiên và nhân tạo, thuộc về Khoa học Trái Đất, là một phân nhánh của khoáng vật học. Đây là 1 ngành học
Bài này chứa danh sách các Tạp chí Khoa học Trái Đất. ## Đa ngành * American Journal of Science * Earth Interactions * Eos, Transactions, American Geophysical Union * Geografiska Annaler: Series A *
Hóa thạch một con sinh vật cổ, thuộc chi [[Marrella]] **Cổ sinh vật học** là một ngành khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của sự sống trên Trái Đất, về các loài động
**Động vật học** (tiếng Anh zoology ) là ngành khoa học nghiên cứu về giới Động vật bao gồm cấu trúc, phôi học, phân loại học, hành vi và phân bố của các động vật
phải|nhỏ| Một chiếc [[đĩa agar nuôi cấy vi sinh vật]] **Vi sinh vật học** (tiếng Anh: _microbiology_, ) là ngành khoa học nghiên cứu về vi sinh vật, chúng có thể là đơn bào, đa
nhỏ|Tinh hốc đã được cưa đôi và đánh bóng nhỏ|Tinh hốc đã được cưa đôi và đánh bóng nhỏ|Tinh hốc trong thành hệ đá bất thường **Tinh hốc**, **hốc tinh thể** (tiếng Anh: **Geodes** từ
**Địa hóa học**, theo định nghĩa đơn giản của thuật ngữ này là hóa học của Trái Đất, bao gồm việc ứng dụng những nguyên lý cơ bản của hóa học để giải quyết các
**Địa chất học** là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng
**Lịch sử địa chất học** ghi chép quá trình phát triển của địa chất học. Địa chất học là khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử và cấu trúc của Trái Đất. Trong
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Thực vật có hoa**, còn gọi là **thực vật hạt kín** hay **thực vật bí tử** (danh pháp khoa học **Angiospermae** hoặc **Anthophyta** hay **Magnoliophyta**) là một nhóm chính của thực vật. Chúng tạo thành
**Ngọc** (), **ngọc thạch** hay **ngọc bích** là một thuật ngữ chung cho hai loại đá trang trí khác nhau được sử dụng làm đồ trang sức hoặc đồ trang trí. Ngọc thường được gọi
**Khoa học đất** là môn khoa học chuyên nghiên cứu về đất, coi đối tượng nghiên cứu này như là một tài nguyên thiên nhiên trên bề mặt của Trái Đất, nghiên cứu khoa học
nhỏ|Một hòn cuội phủ halit bay hết hơi nước từ [[biển Chết, Israel.]] **Evaporit** là trầm tích khoáng vật hòa tan trong nước, được tạo ra từ sự bay hơi của nước bề mặt. Các
nhỏ|Bìa quyển _Kimiya-yi sa'ādat_ (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France. **Lịch sử ngành hóa học** có lẽ được hình thành cách đây
thumb|[[Cordierit]] thumb|[[Tourmalin]] **Đa sắc** là một hiện tượng quang học mà một chất thể hiện nhiều màu sắc khác nhau khi xem xét chúng ở các góc khác nhau, đặc biệt dưới ánh sáng phân
**Thể khoang** hay **khoang cơ thể** (tiếng Anh: **coelom**, số nhiều _coeloms_ hay _coelomata_), là một khoang chứa đầy dịch lỏng hình thành từ trong trung phôi bì. Thể khoang hình thành trong các sinh
**Thiên thạch học** là một bộ môn khoa học liên quan đến thiên thạch và các vật thể ngoài trái đất khác giúp chúng ta hiểu hơn về nguồn gốc và lịch sử của Hệ
nhỏ|Thiên thạch là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của hoá học vũ trụ. **Hoá học vũ trụ** là khoa học nghiên cứu về các vật chất trong vũ trụ về phương diện hoá học.
**Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** (, viết tắt là **VNUHCM**), mã đại học **QS**, là một trong hai hệ thống đại học quốc gia của Việt Nam bên cạnh Đại học
**Thang độ cứng Mohs** đặc trưng cho tính chất chống lại vết trầy xước trên những khoáng vật khác nhau dựa trên tính chất: khoáng vật có độ cứng lớn hơn sẽ làm trầy khoáng
nhỏ|Quang phổ của một ngọn [[lửa, cho thấy ba vạch chính, đặc trưng cho thành phần hóa học của các chất trong ngọn lửa.]] **Quang phổ học** hay **Phổ học** là ngành nghiên cứu về
nhỏ|upright=1.35|Con người giẫm [[nho để ép nước rồi đem ủ men thành rượu cất trong lọ bảo quản. Hình lấy tại lăng mộ Nakht, Vương triều thứ 18, Thebes, Ai Cập cổ đại]] **Tương tác
nhỏ|269x269px|Một góc của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên cơ sở 227 Nguyễn Văn Cừ **Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** ( – **VNUHCM-US**
**Phân loại Strunz** là sự sắp xếp các khoáng vật thành các nhóm dựa trên thành phần hóa học của chúng do nhà khoáng vật học người Đức Karl Hugo Strunz (1910-2006) đề xuất trong
phải|nhỏ|**Nhà địa chất** đang miêu tả lõi khoan vừa thu thập. nhỏ|phải|Các nhà địa chất khảo sát các đá trầm tích [[kỷ Jura|Jura ở Makhtesh Gadol, sa mạc Negev, Israel.]] **Địa chất** là môn khoa
**Perovskit** là khoáng vật calci ti tan oxide thuộc nhóm calci titanat có công thức hóa họcCaTiO3. Khoáng vật này do Gustav Rose phát hiện năm 1839 ở vùng núi Ural của Nga và được
**Bột** là vật liệu hạt với kích thước hạt nằm giữa cát và sét, có nguồn gốc khoáng vật là thạch anh và feldspat. Bột có thể xuất hiện dưới dạng đất (thường trộn với
nhỏ|phải|Chân dung Lý Thời Trân Tượng bán thân Lý Thời Trân trong vườn thuốc tại Kỳ Châu. **Lý Thời Trân** (, 1518–1593), tự là **Đông Bích** (東璧), lúc già có hiệu là **Tần Hồ sơn
**Sinh lý học thực vật** là một phân ngành của thực vật học liên quan đến chức năng hoặc sinh lý của thực vật. Những chuyên ngành có liên quan mật thiết gồm có hình
Lúa mì, một loài thực vật một lá mầm có tầm quan trọng kinh tế _Hypoxis decumbens_ [[Carolus Linnaeus|L. với bao hoa và gân lá song song điển hình của thực vật một lá mầm]]
**Động vật không xương sống** (**Invertebrata**) là một cận ngành của giới động vật không sở hữu hoặc không phát triển về cột sống và ngay tên gọi đã phản ánh đặc trưng của những
[[Cấu trúc tinh thể của họ perovskite ABO3.]] **Perovskite** là tên gọi chung của các vật liệu gốm có cấu trúc tinh thể giống với cấu trúc của vật liệu gốm calci titanat (CaTiO3). Tên
Hệ thống cấp bậc trong phân loại khoa học Trong phân loại sinh học, một **giới** (_kingdom_ hay _regnum_) là một đơn vị phân loại ở cấp cao nhất (theo lịch sử), hoặc là cấp
nhỏ|phải|Frédéric Cailliaud **Frédéric Cailliaud** (9 tháng 6 năm 1787 – 1 tháng 5 năm 1869) là một nhà tự nhiên học, khoáng vật học và nghiên cứu động vật thân mềm người Pháp. Ông sinh
Đại học nghiên cứu tổng hợp kỹ thuật quốc gia Irkutsk, (Tiếng nga: Иркутский национальный исследовательский технический университет, viết tắt tiếng Nga: ИpНИТУ, viết tắt tiếng Anh: IrNITU) - một trong những trường đại học
nhỏ|Một tinh thể chất rắn Trong khoáng vật học và tinh thể học, một **cấu trúc tinh thể** là một sự sắp xếp đặc biệt của các nguyên tử trong tinh thể. Một cấu trúc