✨Lịch sử hóa học

Lịch sử hóa học

nhỏ|Bìa quyển Kimiya-yi sa'ādat (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France.

Lịch sử ngành hóa học có lẽ được hình thành cách đây khoảng 4000 năm khi người Ai Cập cổ đại lần đầu dùng kĩ thuật tổng hợp hóa học dạng "ướt". Đến thời kì 1000 năm trước Công nguyên một số nền văn minh đã dùng những kĩ thuật hóa học vẫn còn giá trị nền tảng cho đến tận ngày nay, như: luyện thép từ quặng sắt, làm đồ gốm, lên men rượu bia, tạo ra màu để sơn và trang trí, chiết xuất tinh chất từ thực vật làm thuốc hay nước hoa, làm phô mai, nhuộm quần áo, thuộc da, chế biến mỡ thành xà bông, làm ra thủy tinh, chế tạo hợp kim chẳng hạn đồng thau.

Cách tiếp cận đến bản chất của thế giới vật chất và những chuyển hóa trong đó theo kiểu triết học thời cổ đại cũng như theo kiểu giả kim thuật đã không thành công, nhưng bằng cách làm thực nghiệm và ghi lại kết quả các nhà giả kim đã đặt nền móng cho phương pháp khoa học sau này. Năm 1661, Robert Boyle bằng công trình The Sceptical Chymist đã tách biệt hẳn giả kim thuật và hóa học, mở ra thời kì mới cho hóa học hiện đại.

Hóa học trở thành ngành khoa học theo nghĩa đầy đủ khi Antoine Lavoisier nêu ra định luật bảo toàn khối lượng, đòi hỏi các đại lượng hóa học phải được định lượng và đo lường cẩn thận. Vì thế mà dù cả giả kim thuật lẫn hóa học đều quan tâm đến bản chất của vật chất và sự chuyển hóa của chúng nhưng chỉ có nhà hóa học, chứ không phải nhà giả kim, dùng phương pháp khoa học trong nghiên cứu. Lịch sử hóa học thường được gắn với lịch sử nhiệt động học, nhất là từ công trình của Willard Gibbs.

Thời cổ đại

Thời kỳ đồ sắt

Việc tách sắt ra khỏi tụ quặng là một công việc có thể làm được nhưng khó khăn hơn nhiều so với đồng và thiếc. Nó được phát hiện bởi vương quốc Hittites vào khoảng thế kỉ XII TCN, mở đầu cho thời kỳ đồ sắt.

Từ lửa đến Nguyên tử luận

nhỏ|190 px|trái|[[Democritos|Democritus, người đề xuất nguyên tử luận]] Điều đang còn tranh luận là việc tự tạo ra lửa phải chăng là phản ứng hóa học đầu tiên con người có thể kiểm soát được. Do thiếu hiểu biết có khoa học mà trong hàng triệu năm nhân loại xem lửa như là một thực thể thần bí có khả năng biến chất này thành chất khác (chẳng hạn đốt cháy gỗ thành than, biến nước sôi thành hơi), tạo ánh sáng và hơi nóng. Lửa có vai trò tối quan trọng trong xã hội sơ khai, dùng cho những sinh hoạt cơ bản như nấu nướng, soi sáng, sưởi ấm đến những kĩ thuật cao thời đó như làm đồ gốm, nung gạch hay nấu chảy kim loại làm vật dụng.

Những triết gia cổ đại trong khi cố gắng hợp lý hóa những vấn đề, chẳng hạn tại sao các chất khác nhau thì có đặc tính (màu, mùi, mật độ) khác nhau, cũng tồn tại ở những trạng thái (khí, lỏng, rắn) khác nhau, đồng thời có phản ứng khác nhau lúc tiếp xúc với môi trường (nước, lửa, nhiệt độ thay đổi) xung quanh, đã đưa ra lý thuyết sơ khởi về tự nhiên hay cụ thể là về hóa học. Những triết thuyết liên quan đến hóa học có thể nhận thấy ở bất kì nền văn minh cổ đại nào, và tựu trung đều cố gắng chỉ ra vài nguyên tố cơ bản cấu thành mọi chất khác tồn tại trong tự nhiên. Từ những khái niệm cụ thể như không khí, nước, đất, lửa, ánh sáng đến trừu tượng hơn như ý thức, thiên đường là những nguyên tố cơ bản rất phổ biến trong nhiều nền văn minh cổ như Hy Lạp, Ấn Độ, Maya, Trung Hoa.

Nguồn gốc của nguyên tử luận được coi là từ Hy Lạp và Ấn Độ cổ. Theo quyển De Rerum Natura (Nguồn gốc vạn vật) của triết gia La Mã Lucretius viết năm 50 trước Công nguyên thì nguyên tử luận Hy Lạp ra đời khoảng năm 440 trước Công nguyên khi hai triết gia Democritus và Leucippus cho rằng "atom" (nguyên tử) là thành phần cơ bản nhất không thể chia nhỏ của vật chất. Cùng thời này ở Ấn Độ, triết gia Kanada cũng phát biểu tương tự trong tác phẩm Vaisheshika.

Thời kỳ trung cổ

Hòn đá của triết gia và sự hưng khởi của giả kim thuật

Tiền nhân rất quan tâm tìm ra giải pháp biến các kim loại rẻ tiền chẳng hạn đồng hay sắt thành vàng. Họ cho rằng có một loại vật liệu gọi là "hòn đá của triết gia" giúp làm được việc đó, và cũng từ đó đã dẫn đến một ngành khoa học sơ khai là giả kim thuật. Ngành này xuất hiện trong nhiều nền văn minh xưa, là sự pha trộn của triết học, thuyết thần bí và phương pháp khoa học sơ khai.nhỏ|trái|Tác phẩm "Renel nhà giả kim", của Sir William Douglas, năm 1853Ngành giả kim không chỉ tìm cách biến kim loại thành vàng mà còn gắng tìm cách chế ra nhiều dược phẩm để cải thiện sức khỏe con người, thậm chí cố tìm được thuốc trường sinh giúp con người trẻ mãi. Các nhà giả kim còn cho rằng có một chất gọi là "ête" (tiếng Anh: ether) trong không khí giúp duy trì sự sống mọi loài. Isaac Newton trong đời nghiên cứu của ông cũng làm một vài việc theo cách thức giả kim thuật.

Nan đề của nhà giả kim

Theo cách đánh giá hiện nay thì ngành giả kim thời xưa có nhiều hạn chế, như việc đặt tên cho các chất mới tìm được không theo một hệ thống nào dẫn đến tình trạng có thể cùng một thuật ngữ lại chỉ nhiều đối tượng khác nhau, do đó được hiểu khác nhau.

Kế đến là không có phương pháp nào đủ tiêu chuẩn khoa học để tái tạo các thực nghiệm đã làm. Thậm chí nhiều nhà giả kim đã đưa cả những thông số không mấy phù hợp vào nghiên cứu của mình, như là thời gian theo thủy triều hay theo tuần trăng. Nhiều yếu tố huyền bí cũng như từ ngữ bí truyền dùng trong ngành giả kim dù hữu dụng nhưng không thể làm nhà giả kim lờ đi nan đề là họ cũng không biết nhiều về chúng. Từ đầu thế kỉ 14, cái mã ngoài của giả kim càng lúc càng lộ rõ và người ta bắt đầu nghi ngờ phương pháp này. Thực tế nhân loại cần một phương pháp có khoa học sao cho một thí nghiệm có thể được lặp lại bởi nhiều người khác nhau, còn kết quả thí nghiệm cần được ghi lại bằng một ngôn ngữ rõ ràng để chỉ ra điều gì đã biết hay chưa biết.

Từ giả kim thuật đến hóa học

Những nhà hóa học tiên phong

nhỏ|[[Jabir ibn Hayyan (Geber) là một nhà giả kim thuật người A Rập có những nghiên cứu thực nghiệm đã đặt nền móng cho Hóa học.]] Người Hồi giáo thuộc khu vực A rập đã dịch nhiều công trình cổ Hy Lạp sang tiếng A rập, họ cũng thử nghiệm một số ý tưởng theo phương pháp khoa học. Dù đã biết là phương pháp khoa học hiện đại được phát triển dần dần và tương đối chậm nhưng vài nhà hóa học Hồi giáo như ông Jabir ibn Hayyan (ở châu Âu gọi là ông "Geber"), đã bắt đầu sử dụng phương pháp khoa học trong hóa học từ thế kỉ thứ 9, và ông được đa số xem là "ông tổ ngành hóa học". Ông đưa ra cách tiếp cận có hệ thống dựa trên thực nghiệm trong quá trình nghiên cứu khoa học., và sáng tạo ra nồi chưng cất, phân tích thành phần hóa học nhiều chất, phân biệt kiềm và axit, bào chế nhiều loại thuốc. nhỏ|216x216px|[[Nước cường toan là chất ăn mòn mạnh, có khả năng hòa tan được vàng và bạch kim nhưng lại không hòa tan được tantan, iridi và các kim loại thụ động khác. Nước cường toan là hỗn hợp của axit nitric đậm đặc và axit clohydric đậm đặc. Axit clohydric được Gaber phát hiện vào khoảng năm 800, bằng cách trộn muối ăn (có thành phần chủ yếu là natri chloride) vào dung dịch axit sunfuric. ]] Nhiều nhà hóa học Hồi giáo khác cũng có ảnh hưởng quan trọng, như Ja'far al-Sadiq, Alkindus, Abū al-Rayhān al-Bīrūnī, Avicenna cũng như Ibn Khaldun đều phản bác thuật giả kim và lý luận kiểu "hòn đá của triết gia" về sự chuyển đổi của kim loại; còn Tusi đưa ra định luật bảo toàn khối lượng ở dạng sơ khai khi ông cho rằng vật chất chỉ thay đổi trạng thái chứ không biến mất. Ông Rhazes là người đầu tiên bác bỏ thuyết của Aristotle về bốn nguyên tố vật chất cơ bản, cũng là một trong những người đặt nền tảng cho hóa học hiện đại qua việc sử dụng phòng thí nghiệm kiểu như ngày nay, thậm chí ông đã tạo ra hơn 20 dụng cụ thí nghiệm mà phần nhiều vẫn còn được dùng đến giờ. nhỏ|Bìa quyển Kimiya-yi sa'ādat (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France.

trái|Georgius Agricola (1494 - 1554), tác giả quyển De re metallica. Ông là cha đẻ của ngành [[Khoáng vật học.]] Từ khi nhiều tác phẩm giả kim thuật từ thế giới A rập được dịch sang tiếng Latin một số nhà giả kim nghiêm túc ở châu Âu đã theo đuổi môn này có định hướng và ngày càng làm tốt hơn. Như ông Paracelsus (1493-1541) đã bác bỏ thuyết bốn nguyên tố của Aristotle và chỉ bằng kiến thức về hóa chất và thuốc của mình đã tạo ra một môn kết hợp giả kim và khoa học, dù ông chưa làm cho những thí nghiệm của bản thân có tính khoa học đầy đủ hơn. Lý thuyết mở rộng của ông chỉ ra cách tạo chất mới từ thủy ngân và lưu huỳnh mà ông gọi là "dầu lưu huỳnh". Có lẽ đây chính là chất đimêtyl ete (có công thức cấu tạo là H3COCH3) ngày nay, vốn chẳng có thủy ngân lẫn lưu huỳnh.

Những cố gắng cải tiến phương pháp lọc tách quặng lấy kim loại là nguồn thông tin quan trọng với nhiều nhà hóa học tiên phong, chẳng hạn ông Georg Agricola (1494–1555) có tác phẩm kinh điển De re metallica ấn hành năm 1556 bàn về vấn đề này. Ông đã lược bỏ những yếu tố kì bí trong ngành và đưa ra nền tảng thực hành để người khác có thể làm theo. Tác phẩm này đề cập nhiều loại lò nấu quặng, tạo ra sự quan tâm nghiên cứu về khoáng chất cũng như hợp chất của chúng.

Thời kỳ phục hưng

Năm 1605 ông Francis Bacon công bố tác phẩm The Proficience and Advancement of Learning được coi là mở đầu cho lý thuyết về phương pháp khoa học. Năm 1615 Jean Beguin công bố tác phẩm Tyrocinium Chymicum là giáo trình hóa học thuộc loại đầu tiên có nêu ra khái niệm phản ứng hóa học.phải|[[Robert Boyle, người tiên phong của hóa học hiện đại ]]

Robert Boyle (1627–1691) được xem là người xác lập lại phương pháp có tính khoa học cho ngành giả kim, đồng thời làm cho ngành hóa học không chỉ dừng ở thuật giả kim nữa mà tách biệt ra và phát triển mạnh thêm. Ông theo nguyên tử luận nhưng thích gọi "nguyên tử" là corpuscle thay cho atoms. Ông nhận định rằng ở mức độ nhỏ nhất của vật chất là nguyên tử thì tính chất của chúng được duy trì chứ không biến đổi. Ông còn phát minh ra định luật Boyle, viết tác phẩm kinh điển The Sceptical Chymist có bàn đến thuyết nguyên tử của vật chất.

Năm 1754 Joseph Black tách được khí cacbonic mà ông gọi là "không khí cô đặc". Carl Wilhelm Scheele và Joseph Priestly độc lập nhau tìm ra khí ôxi mà họ gọi là "khí cháy". Joseph Proust đưa ra định luật xác nhận các nguyên tố kết hợp nhau theo một tỉ lệ nguyên làm thành hợp chất. Năm 1800 ông Alessandro Volta là người đầu tiên chế ra pin và thiết lập quy tắc cho môn điện hóa học. Năm 1803 John Dalton nêu định luật Dalton mô tả quan hệ giữa các thành phần trong một hỗn hợp khí cùng ảnh hưởng của áp suất từng loại lên tổng thể hỗn hợp. Ở Nga, ông Mikhail Lomonosov là người khai mở ngành hóa học đồng thời bác bỏ lý thuyết quá trình cháy và nêu ra thuyết động học chất khí. Ông xem nhiệt là một loại chuyển động, đề xuất ý tưởng về định luật bảo toàn vật chất.

Thời kỳ cận đại

Antoine Lavoisier

nhỏ|trái|Tác phẩm Chân dung Lavoisier và vợ của [[Jacques-Louis David]] Tuy rằng nhiều nhà hóa học tiên phong từ thời cổ Hy Lạp, cổ Ai Cập đến thời kì A rập, Ba Tư có đóng góp cơ bản cho ngành nhưng ông Antoine Lavoisier mới được xem là người khai sinh hóa học hiện đại. Ông đưa ra định luật bảo toàn khối lượng, còn gọi là định luật Lavoisier năm 1789 và nhờ đó ngành hóa học có được phương pháp định lượng nghiêm ngặt giúp thiết lập những dự đoán tin cậy. Ông còn nổi danh bởi lý thuyết quá trình cháy đề xuất năm 1783.

Tranh luận về sự sống - Hóa học hữu cơ

Sau khi xác định được bản chất sự cháy lại nảy sinh tranh luận về bản chất sự sống cũng như khác biệt căn bản giữa chất vô cơ và hữu cơ khởi từ việc ông Friedrich Wöhler tình cờ tổng hợp được urê (có công thức cấu tạo là CO(NH2)2) từ chất vô cơ năm 1828. Trước thế kỉ XIX, vẫn tồn tại thuyết duy tâm cho rằng hợp chất hữu cơ được sinh ra trong các cơ thể sống và con người không thể tổng hợp chất hữu cơ từ nguồn vô cơ nên phát hiện này đã giáng đòn mạnh vào thuyết duy tâm và thúc đẩy sự ra đời của hóa học hữu cơ. Đến cuối thế kỉ 19 các nhà khoa học đã tổng hợp thành công hàng trăm hợp chất hữu cơ, như màu nhuộm, aspirin.

Bất đồng về nguyên tử luận sau thời Lavoisier

nhỏ|Bust of [[John Dalton by Chantrey]]

Throughout the 19th century, chemistry was divided between those who followed the atomic theory of John Dalton and those who did not, such as Wilhelm Ostwald và Ernst Mach. Although such proponents of the atomic theory as Amedeo Avogadro và Ludwig Boltzmann made great advances in explaining the behavior of gases, this dispute was not finally settled until Jean Perrin's experimental investigation of Einstein's atomic explanation of Brownian motion in the first decade of the 20th century. is often recognised as the first milestone in the history of quantum chemistry. This is the first application of quantum mechanics to the diatomic hydrogen molecule, and thus to the phenomenon of the chemical bond. In the following years much progress was accomplished by Edward Teller, Robert S. Mulliken, Max Born, J. Robert Oppenheimer, Linus Pauling, Erich Hückel, Douglas Hartree, Vladimir Aleksandrovich Fock, to cite a few.

Still, skepticism remained as to the general power of quantum mechanics applied to complex chemical systems. The situation around 1930 is described by Paul Dirac:

In the 1940s many physicists turned from molecular hoặc atomic physics to nuclear physics (like J. Robert Oppenheimer hoặc Edward Teller). In 1951, a milestone article in quantum chemistry is the seminal paper of Clemens C. J. Roothaan on Roothaan equations. It opened the avenue to the solution of the self-consistent field equations for small molecules like hydrogen hoặc nitrogen. Those computations were performed with the help of tables of integrals which were computed on the most advanced computers of the time.

Sinh học phân tử và Hóa sinh

nhỏ|299x299px|Biểu đồ mô tả một số đặc điểm cấu trúc chính của DNA Vào giữa thế kỷ 20, về nguyên tắc, sự tích hợp của vật lý và hóa học đã được mở rộng, với các tính chất hóa học được giải thích như là kết quả của cấu trúc điện tử của nguyên tử; Cuốn sách của Linus Pauling về Tự nhiên của Trái phiếu Hóa học đã sử dụng các nguyên lý cơ học lượng tử để suy ra các góc trái phiếu trong các phân tử phức tạp hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, mặc dù một số nguyên lý được rút ra từ cơ học lượng tử có thể tiên đoán một số tính chất hóa học đối với các phân tử liên quan đến sinh học, nhưng đến cuối thế kỷ 20, lại là tập hợp các quy tắc, quan sát và công thức hơn các phương pháp định lượng ab initio nghiêm ngặt.

Cách tiếp cận dựa trên kinh nghiệm này đã thành công năm 1953 khi James Watson và Francis Cricksuy luận cấu trúc xoắn kép của DNA bằng cách xây dựng các mô hình bị ràng buộc bởi và thông báo bởi kiến ​​thức về tính chất hóa học của các phần cấu thành và các mô hình nhiễu xạ tia X thu được bởi Rosalind Franklin.  Khám phá này dẫn tới sự bùng nổ của nghiên cứu hóa sinh của cuộc sống.

Trong cùng năm đó, thí nghiệm Miller-Urey đã chứng minh rằng các thành phần cơ bản của protein, các amino acid đơn giản, có thể được tạo ra từ những phân tử đơn giản trong mô phỏng các quá trình nguyên thủy trên trái đất. Mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi về bản chất thực sự của nguồn gốc của cuộc sống, đây là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu thử nghiệm các quy trình giả thuyết trong phòng thí nghiệm dưới điều kiện kiểm soát.

Năm 1983 Kary Mullis đã phát minh ra phương pháp khuếch đại DNA trong ống nghiệm, gọi là phản ứng chuỗi polymerase (PCR), làm cách mạng hóa các quá trình hóa học được sử dụng trong phòng thí nghiệm để điều khiển nó. PCR có thể được sử dụng để tổng hợp các đoạn DNA cụ thể và có thể sắp xếp DNA của các sinh vật, kết quả là trong dự án bộ gen của con người.

Một phần quan trọng trong câu đố bằng xoắn kép đã được giải quyết bởi một trong những sinh viên của Pauling Matthew Meselson và Frank Stahl, kết quả của sự hợp tác của họ (thí nghiệm Meselson-Stahl) đã được gọi là "thí nghiệm đẹp nhất trong sinh học".

Họ sử dụng một kỹ thuật ly tâm để phân loại các phân tử theo sự khác biệt về trọng lượng. Vì các nguyên tử nitơ là thành phần của DNA nên chúng được dán nhãn và do đó được theo dõi trong quá trình sao chép trong vi khuẩn.

Cuối thế kỉ 20

nhỏ|249x249px|Mô hình 3 chiều của Fullerene (C60) Vào năm 1970, John Pople đã phát triển chương trình phần mềm Gaussian làm giảm đáng kể các tính toán hóa học. Năm 1971, Yves Chauvin đưa ra một lời giải thích về cơ chế phản ứng của phản ứng trao đổi olefin. Năm 1975, K. Barry Sharpless và nhóm của ông đã phát hiện ra một chất chống oxy hóa, phản ứng bao gồm epoxi hoá Sharpless, bất đối xứng dihydroxyl hoá Sharpless, và oxy amin hoá Sharpless. Năm 1985, Harold Kroto, Robert Curl và Richard Smalley khám phá Fullerene, một lớp bọc của các phân tử cacbon lớn bề ngoài giống như những mái vòm được thiết kế bởi kiến trúc sư R. Buckminster Fuller. Năm 1991, Sumio Iijima sử dụng kính hiển vi điện tử để phát hiện ra một loại fullerene trụ được biết đến như một ống nano carbon, mặc dù công việc trước đó đã được thực hiện trong lĩnh vực này càng sớm càng 1951. Tài liệu này là một thành phần quan trọng trong lĩnh vực công nghệ nano. Năm 1994, Robert A. Holton và nhóm của ông đạt được tổng hợp đầu tiên của chất hữu cơ Taxol. Năm 1995, Eric Cornell và Carl Wieman sản xuất lần đầu thể ngưng tụ Bose-Einstein, một chất có hiển thị tính chất cơ học lượng tử trên phạm vi vĩ mô.

Toán học và Hoá học

Về mặt cổ điển, trước thế kỷ 20, hóa học được định nghĩa là ngành khoa học về bản chất của vật chất và sự biến đổi của nó. Do đó rõ ràng là có sự khác biệt so với vật lý không liên quan đến sự biến đổi đáng kể của vật chất. Hơn nữa, trái ngược với vật lý, hóa học không sử dụng nhiều toán học. Ngay cả một số bài toán Hoá học đặc biệt cũng không muốn sử dụng toán học trong hóa học. Ví dụ, Auguste Comte đã viết năm 1830:

Mọi cố gắng để sử dụng các phương pháp toán học trong nghiên cứu các câu hỏi hoá học phải được coi là không hợp lý sâu sắc và trái với tinh thần của hóa học.... nếu phân tích toán học nên bao giờ giữ một vị trí nổi bật trong hóa học - một sai lệch mà là hạnh phúc gần như không thể - nó sẽ nhân dịp một thoái hóa nhanh chóng và lan rộng của khoa học đó.
Tuy nhiên, trong phần hai của thế kỷ 19, tình hình đã thay đổi và August Kekulé đã viết năm 1867:
Tôi mong đợi rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm ra một giải thích cơ học-toán học cho cái mà bây giờ chúng ta gọi là các nguyên tử sẽ làm cho một tài khoản của tài sản của họ.

Ngành hóa chất

Sau thế kỷ XIX đã có sự gia tăng lớn trong việc khai thác dầu mỏ từ ​​trái đất để sản xuất một loạt các hóa chất và thay thế phần lớn sử dụng dầu cá voi, các kho than đá và các cửa hàng hải quân được sử dụng trước đây. Sản xuất quy mô lớn và sàng lọc các nguồn cung cấp xăng dầu cung cấp nhiên liệu lỏng như xăng, dầu diesel, dung môi, chất bôi trơn, nhựa đường, sáp và sản xuất nhiều nguyên liệu thông thường của thế giới hiện đại như sợi tổng hợp, chất dẻo, Chất tẩy rửa, dược phẩm, chất kết dính và ammonia làm phân bón và cho các mục đích sử dụng khác. Nhiều trong số những chất xúc tác mới cần thiết này và việc sử dụng công nghệ hóa học để sản xuất hiệu quả về chi phí của chúng.

Vào giữa thế kỷ XX, việc kiểm soát cấu trúc điện tử của vật liệu bán dẫn đã được thực hiện chính xác bằng việc tạo ra các thỏi lớn tinh thể đơn cực tinh khiết của silic và germani. Kiểm soát chính xác thành phần hóa học của chúng bằng cách pha tạp với các nguyên tố khác tạo ra bóng bán dẫn thể rắn năm 1951 và tạo ra các mạch tích hợp nhỏ để sử dụng trong các thiết bị điện tử, đặc biệt là máy tính.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Bìa quyển _Kimiya-yi sa'ādat_ (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France. **Lịch sử ngành hóa học** có lẽ được hình thành cách đây
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Lịch sử Hoa Kỳ**, như được giảng dạy tại các trường học và các đại học Mỹ, thông thường được bắt đầu với chuyến đi thám hiểm đến châu Mỹ của Cristoforo Colombo năm 1492
**Lịch sử triết học** là một nhánh triết học nghiên cứu các loại hình lịch sử của triết học. Nó bao gồm cả hệ thống triết học của các nhà triết học cá nhân và
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADptin:Dispersion_prism.jpg|phải|nhỏ|300x300px|Ánh sáng tách thành quang phổ bằng cách khúc xạ qua lăng kính thủy tinh. Các góc phân tán màu sắc được phóng đại để dễ hình dung. **Lịch sử của quang phổ học** được
**Niên biểu hóa học** liệt kê những công trình, khám phá, ý tưởng, phát minh và thí nghiệm quan trọng đã thay đổi mạnh mẽ vốn hiểu biết của nhân loại về một môn khoa
nhỏ| The _[[Hippoc Corpus_ - Một bộ sưu tập các tác phẩm y tế cổ đại có thể là của Hippocrates ]] **Lịch sử y học** cho thấy các xã hội đã thay đổi như
left|Một tấm bia đá chứa một phần của [[Sử thi Gilgamesh]] **Lịch sử văn học** là lịch sử sự phát triển của các tác phẩm văn xuôi hay thơ ca; nhằm mang đến sự
Lịch sử thuộc địa của Hoa Kỳ bao gồm lịch sử thực dân châu Âu tại châu Mỹ từ khi bắt đầu thuộc địa hóa vào đầu thế kỷ 16 cho đến khi sáp nhập
**Quang học** là một lĩnh vực vật lý học, chuyên nghiên cứu về ánh sáng, cụ thể la nguồn gốc và cách truyền ánh sáng, cách thức nó biến đổi cùng vời những hiện tượng
Toán học Việt Nam có khởi nguồn chậm phát triển từ thời phong kiến vốn chỉ phục vụ các mục đích đo đạc tính toán và bắt đầu hình thành nền móng hiện đại do
nhỏ|upright|[[Albert Einstein]] **Khoa học** là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về thế giới tự nhiên, do các nhà nghiên cứu trên toàn thế giới phát triển với
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
Các hệ điều hành máy tính cung cấp một tập chức năng cần thiết và được dùng ở hầu hết các chương trình trên máy tính, và các liên kết cần để kiểm soát và
thumb|alt=Extrusion billets of aluminium piled up before a factory|Thanh nhôm đã ép đùn ở [[Nam Tư, năm 1968.]] **Nhôm** là kim loại rất hiếm khi xuất hiện dưới dạng tự nhiên, và quá trình tinh
## Sự hình thành thuyết tương đối tổng quát ### Những khảo sát ban đầu Albert Einstein sau này nói rằng, lý do cho sự phát triển thuyết tương đối tổng quát là do sự
phải|nhỏ| Những bệnh nhân nhi mắc bại liệt được vật lý trị liệu. Ảnh chụp từ thập niên 1950 **Lịch sử xã hội virus** mô tả tác động của virus và những căn bệnh do
nhỏ| [[Bánh xe, được phát minh vào khoảng trước thiên niên kỷ thứ 4 TCN, là một trong những công nghệ phổ biến và quan trọng nhất. Chi tiết này của "Tiêu chuẩn của Ur",
**Bộ lưu trữ Lịch sử Toán học MacTutor** (tiếng Anh: _MacTutor History of Mathematics archive_) là một trang web do John J. O'Connor và Edmund F. Robertson trông nom gìn giữ, thuộc Đại học St
**Lịch sử các ký hiệu toán học** bao gồm sự khởi đầu, quá trình và sự mở rộng văn hóa của các ký hiệu toán học và mâu thuẫn của các phương pháp ký hiệu
thumb|Bảng các yếu tố trong hình học, trích từ cuốn _[[Cyclopaedia_ năm 1728.]] **Hình học** (geometry) bắt nguồn từ ; _geo-_ "đất", _-metron_ "đo đạc", nghĩa là đo đạc đất đai, là ngành toán học
thumb|upright=1.1|[[Herodotus (khoảng 484 TCN – khoảng 425 TCN), thường được coi là "cha đẻ của lịch sử" ở châu Âu]] thumb|_Lịch sử_ - tranh của [[Nikolaos Gysis (1892)]] **Lịch sử**, **sử học** hay gọi tắt
**Lịch sử địa chất học** ghi chép quá trình phát triển của địa chất học. Địa chất học là khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử và cấu trúc của Trái Đất. Trong
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
**Lịch sử pháp lý** hay **lịch sử luật pháp** là nghiên cứu về cách mà luật pháp đã tiến hóa và lý do tại sao nó thay đổi. Lịch sử pháp lý gắn liền với
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
thumb|right|300 px|Ảnh vệ tinh màu thật [[châu Mỹ của NASA]] **Lịch sử châu Mỹ** (bao gồm Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Caribbean và Nam Mỹ) bắt đầu từ thời tiền sử của châu Mỹ hay chuyến
**Lịch sử xã hội**, thường được gọi là **lịch sử xã hội mới,** là một lĩnh vực lịch sử nhìn vào kinh nghiệm sống trong quá khứ. Trong "thời kỳ hoàng kim", đây là một
**Lịch sử người Mỹ gốc Á** là lịch sử của các nhóm dân tộc và chủng tộc ở Hoa Kỳ là người gốc châu Á. Spickard (2007) chỉ ra rằng "Người Mỹ gốc Á là
Phần mềm là các lệnh được lập trình mà được lưu trữ trong bộ nhớ được lưu trữ của các máy tính kỹ thuật số để bộ xử lý thực hiện. Phần mềm là một
Đây là bài con của **Trí tuệ nhân tạo**, nội dung chú trọng vào sự phát triển và **lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo**. ## Sự phát triển của lý thuyết trí tuệ nhân
**Lịch sử Indonesia** là dải thời gian rất dài, bắt đầu từ thời Cổ đại khoảng 1.7 triệu năm trước dựa trên phát hiện về Homo erectus Java. Các giai đoạn lịch sử của Indonesia
thumb|Tranh vẽ những người [[Choctaw chơi môn lacrosse thời kỳ sơ khai.]] **Lịch sử thể thao** có thể có niên đại từ thuở con người bắt đầu rèn luyện quân đội. Thể thao có thể
phải|nhỏ|Một vài dụng cụ truyền thống của thực vật học **Lịch sử của thực vật học** cho thấy nỗ lực của con người để hiểu sự sống trên Trái Đất bằng cách truy tìm sự
thumb|"Tôi nhìn xa hơn, bởi lẽ tôi đã đứng trên vai của những người khổng lồ. " – [[Isaac Newton ]] Vật lý (từ tiếng Hy Lạp cổ đại φύσις _physis_ có nghĩa "tự nhiên") là chi
**Dự án Lịch sử Vĩ Đại** là dự án được Bill Gates và David Christian sáng lập nhằm giúp việc giảng dạy môn lịch sử sáng tạo hơn trên thế giới. Đây là "một nỗ
**Lịch sử người Đức ở Hoa Kỳ** bắt đầu trong thế kỷ 17 với sự thành lập thuộc địa châu Âu đầu tiên trên lãnh thổ của nước mà sau này gọi là Hoa Kỳ.
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Emblemata_1624.jpg|nhỏ|275x275px|Mô tả ban đầu của "kính thiên văn Hà Lan" từ năm 1624. **Lịch sử kính viễn vọng** có thể được tìm thấy các dấu vết đầu tiên từ trước khi kính viễn vọng
nhỏ|phải|Nhà điêu khắc [[Gutzon Borglum và tổng thống Calvin Coolidge đã chọn Washington, Jefferson, Theodore Roosevelt và Lincoln cho tác phẩm điêu khắc trên núi Rushmore.]] Trong khoa học chính trị, việc xếp hạng các
**Khoa Lịch sử Y học của Bảo tàng Nicolaus Copernicus ở Frombork** (tiếng Ba Lan: _Dział Historii Medycyny Muzeum Mikołaja Kopernika we Fromborku_) là một chi nhánh của Bảo tàng Nicolaus Copernicus ở Frombork, tọa
Lịch Sử Khoa Học - Bách Khoa Thư Các Khám Phá Thay Đổi Thế Giới Tái Bản 2022 Tác giả DK Người dịch Nguyễn Quí Hiển Hoàng Bích Thu. Hiệu đính Lê Ngọc Tân Kích
**Cơ học cổ điển** là một phần của cơ học, một lĩnh vực của vật lý học. Các vấn đề cơ bản của nó có từ thời Hy Lạp cổ đại, nó phát triển rực
**Giải Pulitzer cho tác phẩm lịch sử** (tiếng Anh: **Pulitzer Prize for History**) là một giải thưởng văn học của Hoa Kỳ được thiết lập năm 1917, dành cho những tác phẩm xuất sắc về
**Hội chứng sợ các chất hóa học** (tiếng Anh: _chemphobia_ hoặc _chemonoia_), là một sự ác cảm hoặc có những định kiến ​​chống lại các hóa chất hoặc môn hóa học. Hiện tượng này đã
Kỹ thuật hóa học là một lĩnh vực khoa học và công nghệ nghiên cứu và ứng dụng những kiến thức hóa học và kỹ thuật vào quá trình sản xuất các sản phẩm hóa
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.