Dụ chư tì tướng hịch văn (chữ Hán: 諭諸裨將檄文) là bài hịch bằng văn ngôn do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn soạn cuối thế kỷ 13 trước cuộc chiến tranh Đại Nguyên–An Nam thứ nhì.
Lịch sử
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Trần Nhân Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?". Hưng Đạo Vương mới tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng tông miếu xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng!". Vua nghe vậy liền yên lòng.
Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 30 vạn quân Nam, thảo bài Dụ chư tì tướng hịch văn để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Đại Nguyên–An Nam thứ nhì.
Phong hóa
Đương thời, tác phẩm được soạn với mục đích giáo huấn bọn gia thuộc trong thái ấp Hưng Đạo vương, không có bất cứ ảnh hưởng gì đối với bình diện xã hội, mãi về sau do được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư mới được hậu thế biết. Tuy nhiên, ở hậu kì hiện đại, tác phẩm được gắn với các trào lưu chủ nghĩa dân tộc để được tôn sùng làm thiên cổ hùng văn. Thậm chí, nhiều dị bản phổ biến hơn cổ bản còn tìm cách dập xóa câu chữ gốc sao cho hợp ý người hiện đại.
Theo cổ sử, địa danh An Nam xuất hiện năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi Giao Châu tổng quản phủ (từ 622) thành An Nam đô hộ phủ (安南都護府). Về mặt pháp lý, địa danh này tương ứng các cơ quan An Bắc (nay thuộc Bắc Bộ CHND Trung Hoa), An Đông (nay thuộc bán đảo Cao Ly), An Tây (nay thuộc Tây Bộ CHND Trung Hoa). Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, An Nam là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình Việt Nam với triều đình Trung Hoa, trong khi người Cao Ly, Nhật Bản và muộn hơn là người Âu châu thường gọi Giao Chỉ. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người Việt Nam thường xưng An Nam quốc (安南國) hoặc Nam quốc khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình Trung Hoa chấp thuận danh xưng An Nam quốc nhưng vẫn gọi phiếm Nam bang hoặc Giao Chỉ quốc, từ triều Mạc vì viện cớ Mạc Thái Tổ tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống An Nam đô thống sứ ti (安南都統使司). Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn Đại Việt làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế Nguyễn Thánh Tổ mới ban đạo dụ nhất quán gọi Đại Nam quốc, tuy nhiên danh xưng An Nam vẫn không dứt, đây không phải từ ngữ hàm ý miệt thị hay sỉ nhục như mãi sau này nhiều người ngộ nhận vì không biết đọc cổ văn, nó hàm chứa nhiều ý nghĩa tự hào về văn minh cổ điển Á Đông.
Cũng theo các văn bản Hán Nôm hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Châu, Trung Hạ, Hoa Hạ, tự coi Hán nhân, nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi Hán quyển ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị cắt bỏ hoặc xuyên tạc cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm. Điển hình trứ tác Dụ chư tì tướng hịch văn trong cổ bản có câu "Vi trung quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm" (為中國之將侍立夷宿而無忿心), chữ "trung" (中) bị sửa thành "bang" (邦). Về mặt kết cấu, trứ tác tiếp thụ ảnh hưởng ý thức hệ hoa di, coi triều Nguyên là man tộc đã xâm phạm cõi Hoa Hạ thông qua việc tận diệt hai triều đình Đại Kim và Đại Tống, tức những đại diện chính thống của văn minh Hán quyển. Vì thế, An Nam và những phần còn lại của văn hiến Hoa Hạ phải lĩnh trọng trách giữ lấy lẽ chính thống và lề thói tổ tông. Bản thân tác giả phiếm xưng dư (余) là lối nói rất long trọng, vốn chỉ dành cho bậc quyền quý, do đó nêu bật được sức nặng của tác phẩm đối với kẻ nghe.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bộ Truyện Tranh Lịch Sử Việt Nam - Khát Vọng Non Sông Trần Quốc Tuấn và Hịch Tướng Sĩ Bộ sách Truyện tranh lịch sử Việt Nam Khát vọng non sông gồm hàng trăm tập,
**Dụ chư tì tướng hịch văn** (chữ Hán: 諭諸裨將檄文) là bài hịch bằng văn ngôn do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn soạn cuối thế kỷ 13 trước cuộc chiến tranh Đại Nguyên–An Nam thứ
**Hịch** là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh viết ra một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
Trong các loài gia súc, **con dê** là loài có ý nghĩa tinh thần phong phú và có giá trị biểu tượng cao. Nó thể hiện vai trò gần gũi mà quan trọng, tạo ra
**Phạm Ngũ Lão** (chữ Hán: 范五老; 1255 – 1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần
**Trần Hoàn** (tên thật là **Nguyễn Tăng Hích**, còn có bút danh **Hồ Thuận An;** – ) là một nhạc sĩ và chính khách Việt Nam, với phần lớn các ca khúc thuộc dòng nhạc
**Trần Cảo** (chữ Hán: 陳暠) là thủ lĩnh quân khởi nghĩa ở Đại Việt cuối thời Lê sơ. Ông lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông,
**Uriyangqatai** (chữ Mông Cổ: ᠤᠷᠢᠶᠠᠩᠬᠠᠳᠠᠢ, _Урианхайдай_, 1200-1271), còn được chép trong sử liệu chữ Hán với phiên âm Hán-Việt gồm **Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương Hợp Đài, Ngột Lương Cáp Thai**, **Ngột Lương Cáp
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Tả Lương Ngọc** (chữ Hán: 左良玉, 1599 – 1645), tên tự là **Côn Sơn**, người Lâm Thanh, Sơn Đông, là tướng lĩnh cuối đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Phòng vệ Liêu Đông
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Ngô Hán** (chữ Hán: 吴汉, ? – 44) tự **Tử Nhan**, người huyện Uyển, quận Nam Dương , tướng lãnh, khai quốc công thần, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng nhà Đông Hán.
**Du Đại Du** (chữ Hán: 俞大猷, 1503 – 1580), tự **Chí Phụ**, tự khác **Tốn Nghiêu**, hiệu **Hư Giang**, hộ tịch là huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu, Phúc Kiến, nguyên tịch là huyện Hoắc
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Thánh Tam Giang** là danh xưng mà người dân Việt Nam tôn vinh chung hai vị tướng **Trương Hống** và **Trương Hát** được thờ ở 372 làng thuộc lưu vực ba con sông là sông
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Trương Sĩ Thành** (, 1321 – 1367), tự Xác Khanh, tên lúc nhỏ là Cửu Tứ, người Bạch Câu Trường, Hưng Hóa, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Nguyên. Bấy giờ có thuyết
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nhạc Chung Kỳ** (chữ Hán: 岳锺琪, 1686 – 1754), tự **Đông Mỹ** (東美), hiệu **Dung Trai** (容齋), người Thành Đô, Tứ Xuyên, tướng lãnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Khang Hi
**Trịnh Duy Sản** (chữ Hán: 鄭惟㦃; ? - 1516), là nhà chính trị, tướng lĩnh quân phiệt Đại Việt cuối thời Lê Sơ. Ông được đánh giá là nghịch thần, truyện về ông được chép
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
**Danh nhân thời Đinh** là những nhân vật lịch sử đã theo giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, làm quan dưới triều đại nhà Đinh hoặc những người có liên quan
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Đồng Sĩ Bình** (22 tháng 9 năm 1904 – 15 tháng 8 năm 1932), còn được viết là **Đồng Sỹ Bình**, là nhà cách mạng nổi tiếng ở miền Trung Việt Nam trong nửa đầu
**Dự Nhượng** () (?-453 TCN) là một người nước Tấn sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc. Dự Nhượng được người đời sau biết tới trong vai trò thích khách nổi tiếng bậc
nhỏ|phải|Tranh Nhật Bản minh họa việc xử trảm tù binh Trung Quốc trong [[Chiến tranh Thanh-Nhật.]] **_Bách niên quốc sỉ_** (, tiếng Anh: _century of humiliation_), tức _"một trăm năm đất nước bị sỉ nhục"_,
**Trần Đức Thảo** (26 tháng 9 năm 1917 – 24 tháng 4 năm 1993) là một triết gia người Việt. Các công trình của ông là những nỗ lực hợp nhất hiện tượng học và
**Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo** ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một ngôi đền có lịch sử ở
**Tư Mã Tương Như** (chữ Hán: 司馬相如; 179 TCN - 117 TCN), biểu tự **Trường Khanh** (長卿), là một thi nhân văn sĩ rất đa tài, văn hay, đàn giỏi đời Tây Hán. Ông nổi
**_Hà thành chính khí ca_** là một thi phẩm dài nhằm ca ngợi sự tuẫn tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu, đồng thời phê phán những viên quan phản bội (bỏ chạy hay đầu hàng)
**Ngô Quảng** (chữ Hán: 吴广, ? – 1601), người huyện Ông Nguyên, địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông , tướng lãnh nhà Minh. ## Khởi nghiệp Quảng lấy thân phận Võ sanh viên
**Lịch sử quân sự Việt Nam** hay **Quân sử Việt Nam** là quá trình hình thành và phát triển các hoạt động quân sự trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, bắt đầu
**Sử Hy Nhan** (chữ Hán: 史希顏; ? - 1421) vốn tên là Trần Hy Nhan, nhưng rất giỏi Sử nên được vua Trần ban cho họ Sử. Ông là nhà văn, nhà sử học nổi
**Đặng Đề** (1851-?) là một nho sĩ và là một nghĩa sĩ trong phong trào Cần Vương ở Bình Định, Việt Nam. ## Tiểu sử **Đặng Đề** là người huyện Bình Khê (nay là huyện
**Tống Phước Hiệp** (宋福洽, ? - 1776) hay **Tống Phúc Hiệp** là danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Thuần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Tống Phước Hiệp là người
**Văn ngôn** (chữ Hán: 文言), trong tiếng Việt đời thường thường được gọi chung không phân biệt với chữ Hán là **chữ Hán**, còn có tên gọi khác là **Hán văn** (漢文), **Hán tự** (漢字),
**Yếu lược** là một loại công trình tham khảo, hoặc một loại tài liệu tổng hợp các hướng dẫn khác, được soạn ra để có thể tham khảo nhanh. Một quyển yếu lược có khi
**Cuộc nổi loạn của An Hóa vương** (Hán Việt: An Hóa vương chi loạn, chữ Hán: 安化王之乱), còn gọi An Hóa vương phản loạn, là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Minh diễn
**_Kẻ trộm giấc mơ_** (tựa tiếng Anh: **_Inception_**) là một bộ phim điện ảnh AnhMỹ thuộc thể loại hành độngkhoa học viễn tưởnggiật gân ra mắt vào năm 2010 do Christopher Nolan làm đạo diễn,
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Viên Thiệu** (chữ Hán: 袁紹; 154 - 28 tháng 6 năm 202), tên tự là **Bản Sơ** (本初), là một tướng lĩnh nhà Đông Hán và lãnh chúa quân phiệt vào đầu thời Tam Quốc
**Tào Tháo** (; ; (155– 15 tháng 3 năm 220), biểu tự **Mạnh Đức** (孟德), tiểu tự **A Man** (阿瞞) là nhà chính trị, nhà quân sự và còn là một nhà thơ nổi tiếng
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã