✨Hãn quốc Kokand

Hãn quốc Kokand

thumb|Cung điện của Hãn, Kokand. Hãn quốc Kokand (, Қўқон Хонлиги, قۇقان خانلىگى; , قوقون حاندىعى; ) là một quốc gia Trung Á trong Thung lũng Fergana tồn tại từ 1709–1876 bao gồm lãnh thổ những quốc gia ngày nay như Kyrgyzstan, đông phần Uzbekistan và Tajikistan, và đông nam Kazakhstan. Địa danh này còn được viết là Khoqand nhất là trong các ấn phẩm học thuật hiện đại.

Lịch sử

Hãn quốc Kokand có mặt từ khi tiểu vương Shaybanid Shahrukh người Uzbek sáng lập năm 1709 ở đông phần thung lũng Fergana, tách khỏi Hãn quốc Bukhara. Shahrukh thiết triều ở thành Kokand rồi truyền ngôi cho con là Abd al-Karim, rồi đến đời cháu là Narbuta Biy thì hãn quốc càng mở rộng, thành quách chỉnh trang. Đến cuối thế kỷ 18 (1774-98) thì Kokand gửi sứ xưng thần với Nhà Thanh.

Khi cháu bốn đời của Shahrukh là Alim lên làm hãn thì việc triều chính suy đồi. Alim có tiếng là tàn nhẫn, hiếu sát. Alim phái quân đánh lấy tây phần Thung lũng Fergana, chiếm các xứ Khujand và Tashkent nhưng lại bị người anh là Umar giết năm 1810. Con của Umar là Mohammed Ali mới 12 tuổi được lập làm ấu chúa, xưng là Madali Hãn. Đây là thời điểm hãn quốc Kokand đạt diện tích lớn nhất. Uy danh Kokand lan rộng nên Kokand được quyền phong tước Khoja cho giáo chủ xứ Kashgar như trường hợp Jahangir Khoja.

Năm 1841 trong khi Nga và Anh bành trướng ở Trung Á, Công ty Đông Ấn Anh phái Arthur Conolly lên Kokand hầu thuyết phục các hãn quốc đoàn kết chống lại sự xâm nhập ngày càng mạnh của Đế quốc Nga. Việc chưa thành thì Tháng 11 năm 1841, khi nghe tin Đại tá Charles Stoddart bị hãn quốc Bukhara bắt giam, Conolly rời Kokand đi Bukhara tìm cách giải cứu nhưng bị Nasrullah Hãn của Bukhara bắt được và đem hành quyết cả hai vào ngày 24 Tháng 6 năm 1842.

Madali Hãn biết tin, sợ bị lụy vì đã tiếp Conolly ở Kokand nên sai người cầu viện quân Nga. Nasrullah lấy đó làm hiềm nên cấu kết với quan lại Kokand kéo quân đánh úp lấy Kokand năm 1842, bắt được anh em Madali cùng phi tần của Umar là thi sĩ Nodira đem giết cả. Nasrullah sai lập em họ của Madali là Shir Ali làm hãn chúa Tháng 6 năm 1842. Từ đó Kokand rơi vào tình trạng phân hóa kéo dài 20 năm, trong thì nội loạn, ngoài thì bị Bukhara và Nga xâm lấn. Con của Shir Ali là Khudayar lên ngôi năm 1845 cố củng cố quyền lực đến 1858 thì mất. Quân Bukhara của Nasrullah lại kéo sang Kokand đánh phá lần nữa năm 1865. Cùng lúc đó Đế quốc Nga lấn chiếm các tiểu quốc Trung Á, tiếp thu Tashkent ngày 28 Tháng 6 năm 1865 rồi chiếm lấy thành Khujand của Kokand năm 1867.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Cung điện của Hãn, Kokand. **Hãn quốc Kokand** (, Қўқон Хонлиги, قۇقان خانلىگى; , قوقون حاندىعى; ) là một quốc gia Trung Á trong Thung lũng Fergana tồn tại từ 1709–1876 bao gồm lãnh thổ
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
**Nhóm ngôn ngữ Karluk** (còn được gọi là **nhóm ngôn ngữ Qarluq** hoặc **Turk Đông Nam đại chúng**) là một nhánh của ngữ hệ Turk được phát triển từ các phương ngữ mà người Karluk
**Kyrgyzstan** (phiên âm tiếng Việt_: "Cư-rơ-gư-xtan"_, tiếng Kyrgyz: Кыргызстан; tiếng Nga: Киргизия, tuỳ từng trường hợp còn được chuyển tự thành Kirgizia hay Kirghizia, đọc như _"Ki-rơ-ghi-zi-a"_) (đánh vần theo IPA: ), tên chính thức
**Turkestan thuộc Nga** () là một phần phía tây của Turkestan trong đế quốc Nga (quản lý như một Krai hay xứ tổng đốc), bao gồm các khu vực ốc đảo phía nam của vùng
**Tashkent** (; ) hay **Toshkent** (; / , ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Uzbekistan. Đây cũng là thành phố đông dân nhất Trung Á, với dân số là 3 triệu.
**A Cổ Bách** hay **A Cổ Bá** (, , , ياقۇب بەگ بەدۆلەت خان, ; 1820 - 1877) là một nhà thám hiểm, thủ lĩnh quân sự người Tajik và là người đứng đầu nhà
**Syr Darya** (; ; ; , chuyển tự _Syrdarya_ hay _Sirdaryo_) là một sông ở Trung Á, đôi khi còn gọi là **Jaxartes** hay **Yaxartes** từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại ὁ
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
phải|nhỏ| Bản đồ các khu vực sinh sống và bị chiếm đóng bởi ba thành phần người Kazakh vào đầu thế kỷ 20; màu đỏ tượng trưng cho zhuz Uly, màu cam tượng trưng cho
**Bishkek** (phiên âm: **Bi-sơ-kếch**; tiếng Nga và tiếng Kyrgyz: Бишкек) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Kyrgyzstan. Bishkek cũng là trung tâm hành chính của tỉnh Chuy, một tỉnh bao quanh
**Almaty** (; tên trước đây là **Alma-Ata**, cũng gọi là **Verniy**, (Верный)) là thành phố lớn nhất của Kazakhstan với dân số 1.801.713 người, chiếm khoảng 8% tổng dân số cả nước và hơn 2
**Kyzylorda** (, قىزىلوردا), tên trước đây là **Kzyl-Orda** (), **Ak-Mechet** (Ак-Мечеть), **Perovsk** (Перовск), và **Fort-Perovsky** (Форт-Перовский), là một thành phố ở trung-nam Kazakhstan, thủ phủ vùng Kyzylorda và là cố đô của nước Cộng hòa
Danh sách này bao gồm các loại tiền tệ ở hiện tại và trong quá khứ. Tên địa phương của tiền tệ được sử dụng trong danh sách này kèm theo tên quốc gia hoặc
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
thumb|Chân dung Dyugamél' **Kế hoạch Duhamel** là một kế hoạch xâm lược dự trù của Nga nhằm đưa quân vào Ấn Độ trong thời gian Chiến tranh Krym, cuộc chiến tranh mà Nga đánh với
**Bồn địa Fergana**, hoặc gọi **thung lũng Fergana**, là bồn địa sơn gian nằm giữa dãy núi Thiên Sơn và dãy núi Gissar - Alay, ở vào khu vực giáp giới ba nước Uzbekistan, Tajikistan