✨Hàn Kiến

Hàn Kiến

Hàn Kiến (, 855 – 15 tháng 8 năm 912), tên tự Tá Thì (佐時), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, sau đó trở thành hạ thần của nhà Hậu Lương. Ông được biết đến nhiều vì đã buộc Đường Chiêu Tông nằm dưới quyền kiểm soát của mình tại Hoa châu từ năm 896 đến 898 và đồ sát các thân vương.

Khởi đầu sự nghiệp

Hàn Kiến sinh năm 855, tức dưới triều đại của Đường Tuyên Tông, là người Hứa châu. Các tổ tiên của ông, bao gồm cả cha là Hàn Thúc Phong (韓叔豐) nhiều đời phục vụ trong quân đội Đường. vào năm 880, ông ta tiến hành mộ binh, Hàn Kiến nhập ngũ. tiết độ sứ Chu Ngập từ bỏ trung thành với Hoàng Sào và quay sang quy phục Đường, Dương Phục Quang cũng thuyết phục Tần Tông Quyền đóng góp binh lính cho nỗ lực trấn áp Hoàng Sào. Dương Phục Quang phân 8.000 quân thành tám đô, khiển các nha tướng Lộc Yến Hoằng (鹿晏弘), Tấn Huy (晉暉), Vương Kiến, Hàn Kiến, Trương Tạo (張造), Lý Sư Thái (李師泰), và Bàng Tùng (龐從) chỉ huy. và vẫn đang giao chiến với Hoàng Sào. Thay vì tiếp tục giao chiến, Lộc Yến Hoằng quyết định đem binh lính đi cướp bóc khu vực. Vương Kiến, Hàn Kiến, Trương Tạo, Tấn Huy và Lý Sư Thái cũng theo Lộc Yến Hoằng. Cũng trong năm 883, Lộc Yến Hoằng chiếm được Hưng Nguyên- thủ phủ của Sơn Nam Tây đạo, trục xuất tiết độ sứ Ngưu Úc (牛勖) và xưng là lưu hậu.

Hoa châu thứ sử

Đương thời, Đại Đường bị phân chia giữa các quân phiệt, hầu hết trong số họ chỉ quan tâm đến việc chiến đấu và đoạt thêm nhiều lãnh thổ. Tuy nhiên, khi giữ chức Hoa châu thứ sử, Hàn Kiến lại khuyến khích những người dân lưu tán vì chiến hỏa đến định cư tại Hoa châu và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Theo ghi chép, trong khoảng vài năm, cả chính quyền và người dân Hoa châu đều thịnh vượng. Khi đó người đời rất khen ngợi Hàn Kiến cùng Kinh Nam tiết độ sứ Thành Nhuế (成汭).

Giao chiến với Lý Khắc Dụng

Năm 890, Hàn Kiến được bổ nhiệm giữ chức tiết độ sứ của một quân mới được thành lập là Trấn Quốc (鎮國), quân này chỉ bao gồm Hoa châu và Đồng châu. Năm đó, khi Đường Chiêu Tông tuyên bố thảo phạt Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng và bổ nhiệm Đồng bình chương sự Trương Tuấn (張濬) làm tổng chỉ huy chiến dịch, Hàn Kiến đã đích thân đến hợp binh với Trương Tuấn và cũng chịu trách nhiệm về tiếp tế. Sau đó, khi quân triều đình và đại quân của Lý Khắc Dụng chạm trán, Hàn Kiến tiến hành tập kích Lý Tồn Hiếu (con nuôi của Lý Khắc Dụng) vào ban đêm, song bị đẩy lui. Sau khi Hàn Kiến chiến bại, binh lính Phượng Tường và Tĩnh Nan tiến hành đào ngũ. Sau khi quân của Lý Khắc Dụng tiếp tục đánh bại Trương Tuấn và buộc quân triều đình phải cố thủ tại Tấn châu, binh lính Bảo Đại và Định Nan cũng từ bỏ quân triều đình, Trương Tuấn và Hàn Kiến trấn thủ Tấn châu với binh lính do Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung phái đến. Lý Tồn Hiếu bao vây Tấn châu, song sau đó thấy việc bao vây một tể tướng là điều không hay nên từ bỏ bao vây và cho phép Trương Tuấn và Hàn Kiến chạy trốn. Để qua Hoàng Hà, họ buộc phải phá bỏ nhà cửa của cư dân địa phương để làm bè. Thất bại này khiến cho quân triều đình rối loạn, song không rõ về thiệt hại của quân Hàn Kiến. Sau đó, Lý Khắc Dụng lại quy phục triều đình song ra điều kiện phải đưa Trương Tuấn và đồng cấp là Khổng Vĩ (孔緯) đi lưu đày, tuy nhiên, cả Trương Tuấn và Khổng Vĩ đều chạy đến Hoa châu để được Hàn Kiến bảo hộ. tiết độ sứ Lý Mậu Trang (李茂莊), và Khuông Quốc tiết độ sứ Vương Hành Ước (王行約) cùng thượng tấu cho Đường Chiêu Tông để thỉnh cầu Hoàng đế tuyên bố thảo phạt họ Dương, Đường Chiêu Tông cuối cùng phải chấp thuận. Lý Mậu Trinh đánh bại được họ Dương, họ Dương định chạy đến Hà Đông nương nhờ Lý Khắc Dụng, song trên đường bị các binh sĩ của Hàn Kiến chặn lại và bắt giữ. Hàn Kiến giải họ Dương về Trường An, nơi họ bị hành quyết.

Năm 895, sau khi Hộ Quốc tiết độ sứ Vương Trọng Doanh qua đời, chức vụ tiết độ sứ của quân này trở thành vấn đề tranh chấp giữa con nuôi-cháu trai ruột Vương Kha và con trai Vương Củng của ông ta. Hàn Kiến, Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du thượng tấu cho Đường Chiêu Tông để ủng hộ Vương Củng, song Đường Chiêu Tông thấy Lý Khắc Dụng ủng hộ con rể Vương Kha nên từ chối đề xuất của ba người, khiến họ cảm thấy bị sỉ nhục. Vương Hành Du và Hàn Kiến còn tiếp tục thể hiện sự bất mãn bằng việc thỉnh cầu được kiểm soát lưỡng quân Thần Sách quân song bị từ chối. Vào mùa hè năm 895, Hàn Kiến, Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du quyết định tiến quân vào Trường An, họ buộc tộc hai Đồng bình chương sự cũ là Vi Chiêu Độ và Lý Hề tham ô, và khi Đường Chiêu Tông từ chối hành quyết hai người này, họ đã tự ý hành động. Họ cũng buộc Đường Chiêu Tông phải hạ chỉ chuyển Vương Kha đến Khuông Quốc, chuyển Vương Củng đến Hà Trung, và chuyển Vương Hành Ước đến Bảo Nghĩa, rồi mới trở về quân của mình.

Các hành động của Hàn Kiến và đồng minh đã khiêu khích Lý Khắc Dụng phải có hành động, Lý Khắc Dụng nhanh chóng vượt qua Hoàng Hà, bao vây Hoa châu. Những lời thỉnh cầu bỏ bao vây của Hàn Kiến ban đầu bị Lý Khắc Dụng bác bỏ, song sau đó do hay tin Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du đều muốn bắt Đường Chiêu Tông, Lý Khắc Dụng nhanh chóng tiến về Tĩnh Nan. Lý Khắc Dụng bao vây thủ phủ Bân châu (邠州) của Tĩnh Nan, Vương Hành Du bị thuộc hạ giết trên đường chạy trốn. Lý Mậu Trinh và Hàn Kiến do sợ hãi nên quay sang tỏ thái độ rất phục tùng với triều đình. Tuy nhiên sau khi Lý Khắc Dụng triệt thoái, Lý Mậu Trinh và Hàn Kiến lại trở nên ngạo mạn.

Vào mùa hè năm 897, Đường Hy Tông bổ nhiệm Lý Tự Chu là Phượng Tường tiết độ sứ, song khi Lý Tự Chu tiến đến Phượng Tường, Lý Mậu Trinh từ chối giao lại quyền hành và bao vây Lý Tự Chu cùng binh lính. Chỉ sau khi Hàn Kiến viết thư cho Lý Mậu Trinh, Lý Mậu Trinh từ bỏ bao vây và cho Lý Tự Chu trở về Trấn Quốc, sau đó việc bổ nhiệm được rút lại.

Trong khi đó, khi quân của Chu Toàn Trung tiến gần, thủ hạ của Hàn Kiến là Khuông Quốc lưu hậu Tư Mã Nghiệp (司馬鄴) đầu hàng và dâng Khuông Quốc cho Chu Toàn Trung. Chu Toàn Trung khiển Tư Mã Nghiệp trở lại Trấn Quốc để truyền đi thông điệp rằng nếu Hàn Kiến không chịu đầu hàng thì Chu Toàn Trung sẽ tiến công. Hàn Kiến lo sợ và khiển tiết độ phó sứ Lý Cự Xuyên (李巨川) đi thỉnh hàng. Cựu Đồng bình chương sự Trương Tuấn (張濬) gặp Chu Toàn Trung và thuyết phục ông ta rằng Hàn Kiến từng có một hời gian dài liên kết với Lý Mậu Trinh, vì thế cần phải loại bỏ. Khi Chu Toàn Trung gặp Hàn Kiến và quở trách ông vì các hành động trong quá khứ, ông đã đổ lỗi cho Lý Cự Xuyên. Chu Toàn Trung xử tử Lý Cự Xuyên và tha cho Hàn Kiến. Tuy nhiên, vì muốn loại bỏ Hàn Kiến khỏi chính trường, Chu Toàn Trung bổ nhiệm Hàn Kiến là Trung Vũ tiết độ sứ và chuyển Trung Vũ tiết độ sứ Triệu Hứa (趙珝) đến Khuông Quốc. Theo ghi chép thì một lượng lớn số tô thuế mà Hàn Kiến thu được và giữ lại khi Đường Chiêu Tông ở tại Hoa châu (Hưng Đức phủ lúc này bị bãi bỏ) nay rơi vào tay Chu Toàn Trung. Nắm Hoàng đế trong tay, Chu Toàn Trinh bắt đầu tính đến chuyện soán vị, thoạt đầu buộc Đường Chiêu Tông giết Thôi Dận và dời đô đến Lạc Dương. Trên hành trình đến Lạc Dương, Đường Chiêu Tông dừng chân tại Hoa châu và ở lại một thời gian. Vào một thời điểm, Chu Toàn Trung đến gặp Đường Chiêu Tông cùng với Hàn Kiến và cùng dự một bữa tiệc. Tuy nhiên, trong bữa tiệc Hàn Kiến dẫm lên chân Chu Toàn Trung và cảnh báo rằng Đường Chiêu Tông có thể có kế hoạch ám sát ông ta, do đó Chu Toàn Trung đã cắt ngắn buổi tiệc và rời đi. Chu Toàn Trung do đó cảm kích Hàn Kiến. và chuyển Bình Lô tiết độ sứ Vương Trọng Sư (王重師) đến Hựu Quốc.

Thời Hậu Lương

Năm 907, Chu Toàn Trung buộc Đường Ai Đế phải thiện nhượng cho mình, chấm dứt triều Đường và mở đầu triều Hậu Lương, bản thân trở thành Hậu Lương Thái Tổ. Hậu Lương Thái Tổ hạ chỉ bổ nhiệm Hàn Kiến giữ chức Tư đồ, Đồng bình chương sự, và đến năm 908 thì ban cho Hàn Kiến chức Thị trung, kiêm Kiến Xương cung sứ. Vào thời điểm này, Hậu Lương Thái Tổ thường xuyên trở nên hung bạo và vượt quá giới hạn, và chỉ có rất ít quan lại dám đề xuất với ông ta. Tuy nhiên, Hàn Kiến nằm trong thiểu số này, và Thái Tổ đánh giá cao lời khuyên của Hàn Kiến. Năm 910, sau khi tên của Trung Vũ và Khuông Quốc được hoán đổi từ năm 908,. Hàn Kiến được bổ nhiệm giữ chức Khuông Quốc tiết độ sứ (tức ở Trung Vũ quân khi trước).

Năm 912, Dĩnh vương Chu Hữu Khuê ám sát phụ hoàng, sau đó tức vị. Sau cái chết của Hậu Lương Thái Tổ, các đội quân khắp lãnh thổ Hậu Lương trở nên bối rối, song Hàn Kiến không có biện pháp nào phòng ngừa biến loạn tại Khuông Quốc. Không lâu sau, Mã bộ đô chỉ huy sứ Trương Hậu (張厚) tiến hành binh biến và giết chết Hàn Kiến. Con của Hàn Kiến là Hàn Tùng Huấn (韓從訓) - người được Chu Hữu Khuê cử đến Khuông Quốc để thông báo tin tức về việc Thái Tổ băng hà - cũng bị giết chết trong binh biến.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Bồn Tử** (chữ Hán: 劉盆子; 10-?), là Hoàng đế nhà Hán thời kỳ chuyển tiếp giữa Tây Hán và Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Theo Hậu Hán thư, Lưu
**Hàn Kiến** (, 855 – 15 tháng 8 năm 912), tên tự **Tá Thì** (佐時), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, sau đó trở thành hạ thần của nhà Hậu Lương. Ông
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Cải cách Kiến Văn** (chữ Hán: 建文改制, _Kiến Văn cải chế_) là những cải cách do Kiến Văn đế Chu Doãn Văn cùng các danh thần như Tề Thái, Phương Hiếu Nhụ (hay Hiếu Nho)
**Hàn Cảnh hầu** (chữ Hán: 韩景侯, trị vì: 408 TCN - 400 TCN), là vị vua đầu tiên của nước Hàn - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
frame|phải|Hàn Quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] thumb|right|Giản đồ các nước thời Chiến Quốc **Hàn** () là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc tại Trung Quốc. Nhà nước này tồn tại từ
**Kiến điên Tawny** (Danh pháp khoa học: _Nylanderia fulva_) là một loài kiến điên có nguồn gốc Nam Mỹ. Hiện nay chúng là một loài xâm lấn tại Hoa Kỳ. ## Đặc điểm Kiến điên
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Phúc Kiến** là một tỉnh nằm ở ven Biển Đông nam của đại lục Trung Quốc. Năm 2018, Phúc Kiến là tỉnh đông thứ mười lăm về số dân, đứng thứ mười về kinh tế
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
**Tôn Kiên** (chữ Hán: 孫堅; (155-191), tên tự là **Văn Đài** (文臺), là người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đương thời ông là tướng
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Hán hóa** (chữ Anh: _Sinicization_ hoặc _sinofication_, _sinification_, _sinonization_; tiếp đầu ngữ _sino-_, nghĩa là “thuộc về Trung Quốc”), hoặc gọi **Trung Quốc hoá**, là quá trình mà trong đó các xã hội hoặc cộng
nhỏ|Văn Học Kiến An **Văn học Kiến An** là cái tên dùng để chỉ một giai đoạn văn học khá quan trọng trong lịch sử phát triển của văn học Trung Quốc. Và tuy rằng
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc** đã phát triển ngoạn mục trong vài thập kỷ qua. Theo thống kê năm 2007 của chính phủ Hoa Kỳ, gần một phần ba (26,3%) dân số Hàn Quốc
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Kiến trúc sư** (chữ Hán: 建筑师; bính âm: _Jiànzhúshī_; phiên âm: _kiến trúc sư_; tạm dịch: _người thầy có chuyên môn kỹ thuật và thẩm mỹ về kiến tạo cấu trúc_) là người thông qua
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Tô Mậu** (chữ Hán: 苏茂, ? – 29), người quận Trần Lưu, Duyện Châu , là nhân vật quân sự đầu thế kỷ một trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu ông là tướng lãnh
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Làn sóng Hàn Quốc**, còn gọi là **Hàn lưu** hay **Hallyu** (, , có nghĩa là "làn sóng/dòng chảy" trong tiếng Hàn), hay còn có tên gọi đầy đủ là **làn sóng văn hóa Hàn
**Vụ 9 người Việt tháp tùng ngoại giao bỏ trốn tại Hàn Quốc 2018** là sự kiện một nhóm gồm chín trong tổng số hơn 160 người Việt tháp tùng ngoại giao Việt Nam bỏ
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hãn quốc Kazan** (tiếng Tatar: Qazan xanlığı/Казан ханлыгы; tiếng Nga: Казанское ханство, chuyển tự: _Kazanskoe khanstvo_) là một nhà nước của người Tatar thời trung cổ nằm trên lãnh thổ của cựu quốc gia Volga
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:2018_inter-Korean_summit_01.jpg|nhỏ|Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (phải) và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un (trái), tháng 4/2018.]] **Quan hệ Nam-Bắc Triều Tiên**, **Quan hệ Nam-Bắc Hàn** hay **Quan hệ Liên Triều** (Quan hệ Đại
nhỏ|phải|Bia đá mạ vàng trên bảo tháp [[Thích Ca Phật Đài ở Thiền Lâm Tự, Bà Rịa-Vũng Tàu]] **Bia** (_chữ Hán_:碑; phiên âm: "_bi_") là vật tạo tác dạng phiến dẹp có mặt phẳng thường
**Quan hệ Đài Loan – Hàn Quốc** có tình trạng chính thức từ năm 1949 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1992, khi Đại Hàn Dân Quốc và Trung Hoa Dân Quốc đình chỉ
Quyền **đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới** (tiếng Hàn: _레즈비언, 게이, 양성애자 과 트랜스젠더_) ở **Hàn Quốc** phải đối mặt với những thách thức pháp lý và phân biệt đối
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Lễ Hân hoan Bạch kim của Elizabeth II** là một buổi lễ toàn cầu vào năm 2022 để đánh dấu 70 năm ngày Nữ vương Elizabeth II lên ngôi vào ngày 6 tháng Hai năm
**Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc** (**VKFTA**; tiếng Anh: Viet Nam – Korea Free Trade Agreement; tiếng Hàn: 한-베트남 자유무역협정) là điều ước quốc tế được ký kết giữa Cộng
**_Snowdrop_** (; tựa tiếng Việt: _Hoa tuyết điểm_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của Jung Hae-in, Kim Ji-soo, Jang Seung-jo, Yoon Se-ah, Kim Hye-yoon, Jung Yoo-jin và Yoo
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hàn Toại** (chữ Hán: 韩遂; ?–215), tự **Văn Ước** (文約), là một lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở vùng Lương châu vào đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
Vào lúc 22:27 (Giờ Hàn Quốc) ngày 3 tháng 12 năm 2024, Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol đã tuyên bố thiết quân luật trong một bài phát biểu được truyền hình trực tiếp trên
**Phàn Kiến** (chữ Hán: 樊建, ? - ?), tên tự là **Trường Nguyên**, người quận Nghĩa Dương , quan viên nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,